2.1. Các dạng thức sử dụng từ ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương
2.1.1. Sử dụng từ láy
Ngôn ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương bình dị như chính cuộc sống đời thường vậy. Ngôn ngữ trong thơ bà phần lớn dùng ngôn ngữ bình dân, rất hạn chế sử dụng từ ngữ Hán Việt. Sở dĩ như vậy bởi vì bản thân Hồ Xuân Hương chất chứa những tố chất thuần Việt của con người Việt Nam chất phác, mộc mạc; không khoa trương, không xa lạ với thứ ngôn ngữ của quần chúng nhân dân đa nghĩa, điêu luyện. Thật là tài tình, dân gian mà cổ điển, điêu luyện mà rất đỗi hồn nhiên. Thực thực, hư hư, đùa mà như thật, thật mà như đùa...Tất cả đã kiến tạo nên một hồn thơ Hồ Xuân Hương mang đậm phong vị quê hương, mang nhiều âm hưởng của ngôn ngữ dân gian truyền thống.
Từ láy là từ loại được sử dụng rộng rãi trong dân gian nói chung và trong thơ Hồ Xuân Hương nói riêng. Theo thống kê của Lã Nhân Thìn trong tổng số 268 câu thơ có 79 từ láy (chiếm 29,4%). Từ láy trong thơ có nhiều tác dụng, nó có chức năng hạn chế tính công thức ước lệ, làm cho câu thơ trở nên biểu cảm hơn, đậm tính dân tộc hơn và góp phần thể hiện phong cách tác giả. Thơ Hồ Xuân Hương là thơ của sức sống của chân đạp, tay vung, thơ của nhịp điệu cơ thể và cuộc sống con người, thơ của tâm trạng. Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương thường có tác dụng biểu lộ tình cảm, thể hiện con người tác giả.
2.1.1.1. Đặc điểm cấu tạo
a. Từ láy hai âm tiết hay láy đôi
a1. Từ láy phụ âm đầu:
- Da nó xù xì, múi nó dày
- Xin đừng mân mó nhựa ra tay
- Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
- Dắt díu nhau lên đến cửa chiền
- Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi
- Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
- Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
- Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
- Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
- Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt
- Cha kiếp đường tu sao lắt léo
- Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
- Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
- Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
- Đường đi thiên thẹo quán cheo leo
- Đầm đìa lá liễu giọt sương reo
- Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
- Giếng tốt thảnh thơi, giếng lạ lùng
- Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác
- Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo
- Khiến người quân tử hiền nhân ngại ngùng
- Con cò mấp máy suốt đêm thâu
- Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả
a2. Từ láy phần vần:
- Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
- Ai về nhắn bảo phường lòi tói
- Con thuyền vô trạo cúi lom khom
- Lách khe nước rỉ mó lam nham
- Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
- Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo
- Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
- Cửu son đỏ loét tùm hum nóc
- Một dòng nước biếc cảnh leo teo
- Cỏ gà lún phún leo quanh mép
- Cá diếc le te lách giữa dòng
a3. Từ láy phần vần và phụ âm đầu:
- Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi!
- Thương chồng nên mới khóc tỉ ti
- Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom
- Sau giận vì duyên để mõm mòm
- Nước trong leo lẻo một dòng thông
a4. Từ láy hoàn toàn, chủ yếu là láy từ:
- Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
- Con đường vô ngạn tối om om
- Lâng lâng chẳng bợn chút lòng ai
- Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
- Đố ai thả nạ dòng dòng
- Trai đu gối hạc khom khom cật
- Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
- Hai hàng chân ngọc duỗi song song
- Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
- Một suốt đâm ngang thích thích mau
- Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
- Mảnh tình san sẻ tý con con
- Thương chồng nên nỗi khóc ti ti
- Trống mang dùi cắp đã phanh phanh
b. Từ láy ba âm tiết trở lên
- Vị gì một tý tẻo tèo teo
- Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
2.1.1.2. Phương diện biểu hiện
a. Từ láy tạo thanh
- Phì phạch trong lòng đã sướng chưa?
- Giọt nước hữu tình rơi thánh thót
- Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
- Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom
- Thương chồng nên mới khóc tỉ ti
- Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
b. Từ láy tạo hình
b1. Màu sắc:
- Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
- Con đường vô ngạn tối om om
- Nước trong leo lẻo một dòng thông
b2. Hình dáng:
- Da nó xù xì, múi nó dày
- Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé
- Đố ai thả nạ dòng dòng
- Trai đu gối hạc khom khom cật
- Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
- Hai hàng chân ngọc duỗi song song
- Sau giận vì duyên để mõm mòm
- Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi!
- Cửu son đỏ loét tùm hum nóc
- Cỏ gà lún phún leo quanh mép
- Lách khe nước rỉ mó lam nham
- Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
- Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo
- Con thuyền vô trạo cúi lom khom
- Vị gì một tý tẻo tèo teo
- Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom
c. Từ láy thể hiện hành động, trạng thái tính chất
c1. Từ láy thể hiện trạng thái, tính chất:
- Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
- Một suốt đâm ngang thích thích mau
- Lâng lâng chẳng bợn chút lòng ai
- Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm
- Cá diếc le te lách giữa dòng
- Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
- Giếng tốt thảnh thơi, giếng lạ lùng
- Lợp lều mái cỏ tranh xơ xác
- Đứng chéo trông theo cảnh hắt heo
- Khiến người quân tử hiền nhân ngại ngùng
- Rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả,
- Đầm đìa lá liễu giọt sương reo
- Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
- Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
- Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
- Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt
- Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi
- Của em bưng bít vẫn bùi ngùi
C2. Từ láy thể hiện hành động:
- Xin đừng mân mó nhựa ra tay
- Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
- Dắt díu nhau lên đến cửa chiền
- Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
- Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
- Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Qua các dạng và phương diện biểu hiện của từ láy, chúng tôi nhận thấy rằng Hồ Xuân Hương chủ yếu sử dụng phương diện từ láy thể hiện hình dáng và trạng thái tính chất sự vật. Đây là các bộ phận từ láy thể hiện được đặc điểm sự vật, có giá trị biểu cảm cao. Các từ láy mà Hồ Xuân Hương dùng thường rất “đắc địa”, nó sắc thái riêng, rất Xuân Hương vì đặt đúng vào hoàn cảnh, được kết hợp trong ngữ biểu đạt đắc dụng.
2.1.1.3. Giá trị biểu đạt của từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương
Có bao giờ ta tự đặt câu hỏi tại sao trong thơ Hồ Xuân Hương lại sử dụng nhiều từ láy đến vậy? Một phần đó là thứ ngôn ngữ được sử dụng khá phổ biến trong thơ ca dân tộc, hơn nữa từ láy bản thân nó còn mang lại giá trị biểu đạt rất cao. Nghĩa của từ láy khá phong phú, lấp lửng rất phù hợp với lối thơ nghịch ngợm, bông đùa. Điều đó đã góp phần làm cho câu thơ mang nhiều tầng nghĩa : Biểu lộ tình cảm, khắc họa hình tượng, đường nét, hình ảnh một cách rõ nét và phong phú hơn. Nó làm cho người đọc vừa dễ thuộc, dễ hiểu, dễ nhớ. Điều đó phần nào đã tạo nên một phong cách thơ Hồ Xuân Hương khó trộn lẫn với bất cứ nhà thơ đương thời nào.
Đọc thơ Hồ Xuân Hương, tôi có cảm giác đó như là thứ khẩu ngữ được thoát ra từ cửa miệng của những người nông dân sau lũy tre làng. Sao mà mộc mạc, dung dị, thiết tha đến vậy! Chúng ta thử đọc kỹ những từ ngữ trong thơ Hồ Xuân Hương đã sử dụng, đặc biệt chú ý đến những từ láy, ta thấy có nhiều sự trùng hợp trong cách sử dụng từ ngữ, cách gieo vần. Phải chăng sự ngạc nhiên của bạn đọc chính là dụng ý của tác giả? Nếu quả thật đúng như vậy thì Hồ Xuân Hương quả thật là nhà thơ rất tài tình. Trong số các từ láy mà chúng tôi đã khảo sát trong tuyển tập thơ Nôm Hồ Xuân Hương do Ngô Lăng Vân biên soạn. Chúng tôi thấy rằng có rất nhiều từ láy mà Hồ Xuân Hương đã gieo cùng một khuôn vần. Điều đó tạo nên một giá trị biểu đạt rất cao trong việc sử dụng từ ngữ với những dụng ý riêng của mình.
Về phương diện biểu hiện, Hồ Xuân Hương chú ý đến các từ láy tạo hình và trạng thái, tính chất của sự vật, hiện tượng. Những từ láy mà Hồ Xuân Hương sử dụng thường gây ấn tượng mạnh. Một số từ do tác giả sáng tạo ra như mõm mòm, hắt heo, hỏm hòm hom, nhưng phần lớn là sử dụng trong kho tàng từ láy tiếng Việt. Tuy nhiên, do biết kết hợp trong một ngữ cảnh hay ngôn cảnh điển hình nên có giá trị biểu cảm lớn. Tiếng "văng vẳng" trong đêm khuya thật ai oán, làm ta liên tưởng đến một không gian thanh vắng, tĩnh mịch gợi trong lòng một nỗi buồn, cô đơn. Nó liên kết với các âm thanh "om om", "phập phòm", "thăm thẳm", "cheo leo", "leo teo" biểu đạt không khí "sầu", "thảm" bao trùm vũ trụ và nặng nỗi đắng cay. Một sự cô đơn rờn rợn, những tiếng ca "rầu rĩ" ấy luôn bị chôn chặt bởi những âm thanh trái ngược tạo nên sự xung đột trong nhạc điệu của bài thơ. Những từ láy "mõm mòm", "long bong", "hắt heo", "leo teo"...thể hiện sự mòn mỏi, hiu hắt, buồn bã cũng giống như thân phận người đàn bà lỡ làng, đau khổ, bấp bênh.
Các từ "nho nhỏ", "xù xì", "mân mó", "tỉ ti", "phì phạch", ...là những từ láy mang phong cách rất riêng, nó làm cho những câu thơ của Hồ Xuân Hương vốn tinh quái lại càng trở nên kì lạ hơn. Những âm thanh độc đáo, mọi vật như đang chuyển động, sinh sôi, nảy nở...
Khuôn vần "eo" dùng để cấu tạo một số từ láy miêu tả tâm trạng buồn rầu, nhỏ bé, hiu quạnh, hàm ý chỉ sự khó khăn cách trở: Cheo leo, hắt heo, khéo khéo, leo teo, leo léo, tẻo tèo teo, lộn lèo, lắt lẻo...Trong bài thơ "Quán nước bên đường" Khuôn vần "eo" đã được bà sử dụng đến bốn lần :"hắt heo, leo teo, cheo leo, lộn lèo". Bài thơ là một loạt những cảnh tượng thật buồn, vắng lặng, heo hắt, con đường làng thì quanh co, nhà cửa thì tiêu điều, xơ xác, con người thì "leo teo", thưa thớt ...Tất cả hiện lên là một bức tranh thôn quê thật nghèo nàn, xác xơ. Chỉ bằng một khuôn vần "eo" với sự thông minh, khéo léo Hồ Xuân Hương đã tạo nên một loạt từ láy mang nhiều cung bậc của cảm xúc đem lại giá trị biểu đạt cao, nhằm đưa đến cho người đọc có một cảm giác man mác buồn, cô đơn, vắng lặng. Bên cạnh đó khuôn vần "om" cũng đã được Hồ Xuân Hương sử dụng khá nhiều trong các sáng tác của mình. Nếu như khuôn vần "eo", biểu hiện cảm giác buồn thì khuôn vần "om" lại biểu thị một ý nghĩa khác, nó thể hiện sự dở dang "Sau giận vì duyên để mõm mòm" (Ngẫu cảm), không vững vàng, yếu ớt "Đứng lom khom" (Trăng thu). Ở đây ta thấy nghĩa của từ láy biểu thị ở một mức độ mạnh hơn so với hình vị gốc : “Hỏm hòm hom, lõm bõm, om om, mõm mòm, phập phòm”...Điều đó cho thấy mức độ ngữ nghĩa cứ tăng dần lên, biểu thị sự gấp gáp, cuống quýt, dồn nén, một cảm giác như muốn nổ tung ra, bung ra, phơi bày ra tất cả để người đọc có thể hình dung một cách bao quát nhất. Phải chăng đó là con người Hồ Xuân Hương, một người không bao giờ tự bó hẹp mình trong một khuôn khổ, phạm vi nào cả mà lúc nào bà cũng tự đặt mình ngang hàng với các đấng mày râu để nói lên tiếng nói phê phán đả kích, châm biến xã hội bảo vệ quyền sống, quyền bình đẳng cho những người phụ nữ vốn chịu nhiều thiệt thòi, khổ đau. Đó mới chính là bản ngã Hồ Xuân Hương.
Khuôn vần "un" "um" dùng để cấu tạo một số từ mang nghĩa tập hợp nhiều sự vật, nhiều biểu hiện ở cả dáng vẻ và hành vi : Tùm hum, lún phún, um tùm, khúm núm. "Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, hòn đá xanh rì lún phún rêu" (Đèo Ba Dội). Câu thơ thể hiện rõ gam màu "đỏ tùm hum", với hàng loạt những rêu xanh đang mọc "lún phún" trên đỉnh đèo. Bên cạnh lớp nghĩa đen là miêu tả cảnh vật hoang sơ, thanh tịnh, cảnh núi non hiểm trở của đèo của hang. Nhà thơ còn ngầm sử dụng một lớp nghĩa bóng đó là những hình ảnh biểu hiện tính phồn thực. Hình ảnh đèo, hang, giếng nước...đó chính là những bộ phận trên cơ thể người phụ nữ, một sự kết hợp âm dương hài hòa, mang đậm giá trị nhân văn nhân bản.
Như vậy, qua những dẫn chứng vừa chứng minh trên đây, ta đã phần nào thấy được giá trị biểu đạt mà từ láy mang lại là rất lớn, điều đó phần nào thể hiện được nội dung, mục đích, hàm ý mà tác giả muốn chuyển tải đến người đọc để từ đó người đọc có được cái nhìn bao quát hơn, sâu sắc hơn đối với tác phẩm mà họ được tiếp cận. Một lần nữa lại chứng minh cho sự tài tình, táo bạo, thông minh, sắc sảo trong việc sáng tạo nên những từ ngữ vừa gần gũi, dễ hiểu với quần chúng nhân dân, vừa đa thanh, đa nghĩa. Vì lẽ đó mà cho đến nay, dù đã trải qua hàng trăm năm lịch sử nhưng thơ của bà chúa Hồ Xuân Hương vẫn luôn tạo được dấu ấn mạnh mẽ trong lòng những độc giả thuộc nhiều tầng lớp khác nhau.
2.1.2. Sử dụng hình thức chơi chữ và nói lái
Chơi chữ cũng là một trong những biện pháp tu từ quen thuộc được sử dụng trong nghệ thuật văn chương. Chơi chữ là một biện pháp nghệ thuật trữ tình đặc sắc. Hồ Xuân Hương đã sử dụng lối chơi chữ để biểu hiện các sự vật sự việc mà bà đang đề cập đến. Hai thủ pháp cơ bản trong cách chơi chữ của Hồ Xuân Hương là lối nói lái và chiết tự Hán. Hai thủ pháp này đã góp phần tạo nên dấu ấn đặc sắc trong việc thể hiện nội dung, chủ đề tư tưởng Hồ Xuân Hương.
Bài thơ Không chồng mà chửa, Hồ Xuân Hương đã khéo léo sử dụng lối chiết tự tả thực trạng cô gái không chồng mà chửa. Nghĩa là một trò tiểu xảo của sĩ tử ngày xưa không hay ho gì, có khi rất đáng ghét. Nhưng một khi đã vào tay Hồ Xuân Hương không chỉ thuần túy là một lối chơi chữ mà là một nỗi lòng chua chát:
“Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc”. Chữ thiên (天) nếu thêm một nét dọc sẽ thành chữ phu (天), là chồng. “Phận liễu sao đà nảy nét ngang”. Chữ liễu ( ), thêm một nét ngang thành chữ tử (子), là con.
Trong hai câu thơ sau, tác giả đã dùng chữ “chửa” và chữ “mang” ở cuối câu đều là những chữ có thể hiểu hai nghĩa:
Cái nghĩa trăm năm chàng có chửa?
Mảnh tình một khối thiếp xin mang.
Từ “chửa” vừa có nghĩa “chưa”, vừa mang nghĩa “có thai”, vừa “mang” vừa có nghĩa “có bầu, mang thai”, vừa có nghĩa “xin chịu, chấp nhận, gánh vác”.
Dùng từ Hán Việt:
Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo
Cay đắng chàng ơi vị quế chi
Thạch nhũ, trần bì sao để lại.
(Bà lang khóc chồng)
“Cam thảo, quế chi, thạch nhũ, trần bì” là những từ chỉ vị thuốc nhằm tạo ra tính hai nghĩa cho câu thơ. Một mặt giúp người đọc tiếp nhận theo đúng nghĩa đen, mặt khác lại khiến cho người đọc liên tưởng đến tầng nghĩa sâu xa hơn. Phải chăng đó chính là những "sản phẩm" đáng được trân trọng mà trời đã ban cho các chị em phụ nữ chúng ta?
Trong bài thơ "Khóc tổng cóc", nghệ thuật chơi chữ ở đây là sử dụng một lớp từ đồng nghĩa hay đúng hơn là trong một trường nghĩa chỉ các con vật lưỡng cư: cóc, chàng (chẫu, chàng), bén (nhái), nòng nọc, chuộc (chuộc chuộc), thể hiện độc đáo và cảm động nỗi đau khổ, tuyệt vọng của người vợ trước tang chồng.
Thủ pháp thứ hai được tác giả hay sử dụng là lối nói lái, rõ ràng là có liên hệ trực tiếp với hàng loạt những hiện tượng ngôn ngữ trong sinh hoạt cộng đồng người việt:
- Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
- Trái gió cho nên phải lộn lèo
- Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo
- Chày kình tiểu để suông không đấm
- Bá ngọ con ong bé cái lầm
- Đét dồn lên đánh cuộc cờ người...
Hồ Xuân Hương sử dụng lối nói ỡm ờ, lấp lửng:
- Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
- Chúa dấu vua yêu một cái này
- Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
- Đá kia còn biết xuân già dặn
- Chả trách người ta lúc trẻ trung
Nói úp mở:
- Vị gì một chút tẻo tèo teo
- Càng nóng bao nhiêu thời càng mát
- Thịt da đâu cũng thế mà thôi
- Của em bưng bít vẫn bùi ngùi
- Chiến đứng không thôi lại chiến ngồi...
"Nếu như Nguyễn Du đã mượn thể lục bát của dân gian hoàn thiện và đưa nó lên đỉnh cao của ngôn ngữ bác học, Đoàn Thị Điểm và Nguyễn Gia Thiều hoàn thiện thể song thất lục bát, bà Huyện Thanh Quan đã hoàn thiện thể thơ nôm đường luật thì Hồ Xuân Hương không những đã hoàn thiện chúng mà còn sáng tạo ra một loại thơ Đường luật mới" [11, tr. 95]. Đó không chỉ là giới hạn ở sự Việt hóa thể thơ Trung Quốc mà điều quan trọng là trong quá trình sử dụng và đưa vào thơ mình, Hồ Xuân Hương đã dựa vào tính đơn âm và đa thanh của tiếng việt sát gần với tiếng Hán mà vẫn giữ nguyên thể loại đảm bảo sự hài hòa, cân đối như một khối nền đa âm thanh và đa màu sắc.
Hồ Xuân Hương sử dụng lối chơi chữ, lối nói lái một cách rộng rãi. Nhưng lối chơi chữ, nói lái của Hồ Xuân Hương không phải như của bọn nho sĩ phong kiến, chơi chữ là chơi chữ nho nhằm để khoe chữ, phô trương tri thức sách vở. Còn Xuân Hương chơi chữ hoặc để trào lộng, hoặc mỉa mai châm biếm làm cho câu thơ trở nên "duyên dáng" vô cùng. Xuân Hương là nhà thi sĩ độc nhất dùng những lời nói rất đỗi đời thường, nôm na, giản dị vào trong thơ và lại rất khéo rất táo bạo. Xuân Hương cũng là nhà thi sĩ độc nhất có ngòi bút tả thực rất độc đáo và sắc sảo thật đúng là một ngòi bút trào lộng bậc thầy của văn học Việt Nam trung đại.
2.1.3. Sử dụng cách nói của dân gian trong ca dao, thành ngữ, tục ngữ
2.1.3.1. Cách sử dụng ca dao, thành ngữ, tục ngữ
Nếu như tục ngữ là những câu nói mang đặc điểm ngắn gọn, súc tích có hình ảnh giàu vần điệu nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức thực tiễn về tất cả mọi lĩnh vực của đời sống con người và cuộc đấu tranh sinh tồn của nhân dân lao động, thì thành ngữ là những đoạn câu, cụm từ tương đối ổn định, bền vững nhằm thể hiện một quan niệm dưới một hình thức sinh động, hấp dẫn có tác dụng tô điểm và nhấn mạnh ý nghĩa của những từ cần diễn đạt.
Qua sự khảo sát tập thơ nôm Hồ Xuân Hương do Ngô Lang Vân tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Thanh Hóa, (2003), chúng tôi đã phát hiện được trường hợp có xuất hiện các yếu tố thành ngữ, tục ngữ trong câu (chiếm 30%). Cụ thể có 7 bài vận dụng thành ngữ, 7 bài vận dụng tục ngữ và 1 bài phối hợp cả thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt. Việc đưa tục ngữ, thành ngữ vào tác phẩm đã được nhà thơ xử lý rất tinh tế tài tình và nhuần nhuyễn.
Các thành ngữ như:
- Bảy nổi ba chìm trong câu thơ " Bảy nổi ba chìm với nước non"
- Bạc như vôi, Xanh như lá trong câu thơ "Đừng xanh như lá bạc như vôi"
- Cố đấm ăn xôi trong câu "Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm"
- Năm thì mười họa trong câu thơ "Năm thì mười họa chăng hay chớ"
- Nặng như đá đeo trong câu thơ "Cái kiếp tu hành nặng đá đeo"
Trong quá trình tiếp thu và vận dụng thành ngữ vào sáng tạo nghệ thuật. Có nhiều bài thơ chỉ sử dụng một phần của thành ngữ
- "Đỏ lòng xanh vỏ" và "đỏ như son" trong "Bánh trôi nước"
- "Có tiếng không có miếng" và "gặp chăng hay chớ" "làm mướn không công" trong "Làm mướn".
- "Giống như in" trong "Tranh tố nữ"
- "Nói dối như cuội" trong "Vịnh trăng"...
Nhờ việc vận dụng phương pháp và linh hoạt các thành ngữ tiếng Việt trong sáng tạo nghệ thuật, Hồ Xuân Hương đã làm nhấn mạnh rõ hơn ý nghĩa của các từ cần biểu đạt trong từng câu thơ mà bà đã đề cập đến nhằm tạo cho câu thơ thêm sinh động, đa dạng hấp dẫn.
Đến với bài thơ "Bánh trôi nước", qua việc sử dụng thành ngữ tiếng Việt, Hồ Xuân Hương đã thể hiện rõ một quan niệm tiến bộ đó là con người (người phụ nữ) dù cuộc sống có gặp muôn và khó khăn, gian khổ, tưởng chừng như là ngõ cụt buộc phải đầu hàng số phận nhưng đằng sau tấm thân mảnh mai, yếu ớt ấy là một sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của người phụ nữ luôn có ý thức tự vươn lên trước sự nghiệt ngã của cuộc đời. Hay trong bài thơ "Làm lẽ", Hồ Xuân Hương đã phản ánh chân thực và xúc động những thiệt thòi, bất hạnh của người phụ nữ trong thân phận làm lẽ mọn. Tỏ thái độ bất bình, phản kháng chế độ đa thê (Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ có một chồng) một tập tục đã ngự trị dai dẳng và nghiệt ngã trong xã hội phong kiến...
Hồ Xuân Hương đã vận dụng ý tưởng từ những tục ngữ, thành ngữ và ca dao một cách triệt để vào thơ của mình. Bà không sử dụng hoàn toàn câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ của dân gian mà chỉ chắt lọc lấy những chi tiết nổi bật, cần thiết từ những từ ngữ, thành ngữ; qua đó bộc lộ tình cảm và cảm xúc của nhà thơ.
- Vận dụng câu thành ngữ "Nảy nòi nòng nọc" hay “Nòng nọc đứt đuôi” để sáng tạo câu thơ "Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé" (Khóc Tổng Cóc).
- Vận dụng câu ca dao "Không chồng mà chửa mới ngoan, có chồng mà chủa thế gian sự thường" rồi rút gọn thành "Không có mà có mới ngoan" (Không chồng mà chửa).
- Vận dụng câu tục ngữ "Con vua vua dấu, con chúa chúa yêu" với câu thơ "Chúa dấu vua yêu một cái này" (Vịnh cái quạt).
- Vận dụng ý tưởng “ngủ ngày” trong câu tục ngữ "Đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt, ăn vặt quen mồm" để làm bài thơ “Thiếu nữ ngủ ngày”. Bài thơ Thiếu nữ ngủ ngày ta thấy Hồ Xuân Hương đã vẽ ra những nét chấm phá rất "hoàn thiện" và "toàn bích" trước vẻ đẹp trên thân thể của người thiếu nữ. Trong tục ngữ và theo lối suy nghĩ của nhân dân ta, kẻ hay ngủ ngày là những kẻ lười nhác, đây là thói quen xấu cần phải phê phán. Đến với Xuân Hương lại khác, khai thác ở một khía cạnh ngủ ngày nhưng ở một tư thế rất đẹp, đầy sức thanh xuân:
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông.
Bồng Đảo, Đào Nguyên là cảnh tiên, cái đẹp lý tưởng. Đôi gò đẹp tròn căng trên nương long ấy là đôi Bồng Đảo, cái lạch bên dưới là một lạch Đào Nguyên. Cả hai đều là tiên cảnh, ở đó là một sự sống tràn đầy, đây chính là cái đẹp hình thể – Cái đẹp của sự sống. Giống như Puskin đã nói "Cái đẹp không chỉ ở đôi má hồng của người phụ nữ mà ở trong đôi mắt của kẻ si tình".
2.1.3.2. Giá trị biểu đạt từ cách vận dụng cách nói dân gian
Từ những dẫn chứng trên, ta có thể dễ dàng nhận ra rằng Hồ Xuân Hương đã vận dụng ca dao, thành ngữ, tục ngữ dân gian để đưa vào thơ qua hai phương thức chủ yếu. Một mặt là Hồ Xuân Hương đã vận dụng thành ngữ, tục ngữ dân gian một cách trực tiếp, có nghĩa là bà đã trích dẫn nguyên văn thành ngữ, tục ngữ của dân gian " Xanh như lá, bạc như vôi" trong câu "Đừng xanh như lá bạc như vôi" (Mời trầu), "Nòng nọc đứt đuôi" trong câu "Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé" ( Khóc tổng cóc), "Năm thì mười họa " trong câu "Năm thì mười họa chăng hay chớ", "Cố đấm ăn xôi" trong câu "Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm" (Cảnh làm lẽ). Việc vận dụng tục ngữ, thành ngữ vào trong thơ sao cho hợp lý và phù hợp với nội dung, tư tưởng chủ đạo của bài thơ, phải làm sao để bố cục trong câu thơ không lủng củng, xáo trộn và tối nghĩa. Điều đó buộc tác giả sản sinh ra những bài thơ đó phải là người có vốn từ ngữ dân tộc khá phong phú, đồng thời cũng phải tinh tế trong cách xử lý ngôn từ, cụm từ cố định để khi đưa vào thơ tạo cho câu thơ có sự liền mạch, súc tích không bị gượng ép về nghĩa và vần điệu,vừa không bị cứng nhắc, xáo trộn. Điều đó đã được Hồ Xuân Hương xử lý một cách thật tài tình. Trong bài thơ Chợ trời (Chơi chợ chùa Thầy), bài thơ đã miêu tả khung cảnh chợ chùa Thầy tức chùa Hương Tích ở Mỹ Đức tỉnh Hà Đông (cũ) nay thuộc thành phố Hà Nội. Bài thơ là lời đả kích, châm biếm những kẻ sĩ vốn mang danh tri thức nhưng thực ra trong đầu lại rỗng tếch, một chữ cắn đôi cũng không có. Câu thơ mang đậm tính hài hước, phê phán sâu cay những kẻ mang danh hão, dựa vào thế lực của đồng tiền chúng có thể "Bán lợi mua danh" một cách ngang nhiên, trắng trợn. Thành ngữ dân tộc ta cũng có một câu "mua danh bán lợi" hàm ý chê bai những kẻ dốt đội lốt mình có học vấn cao, uyên thâm.
Hồ Xuân Hương đã biết vận dụng một cách thật hợp với logic tự nhiên, đồng thời tạo nên một dấu ấn rất riêng trong lòng người đọc qua việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ vào thơ mình. Bài thơ Làm lẽ lại là một minh chứng khác. Bài thơ chính là tiếng lòng được thốt lên từ những thân phận hẩm hiu, thua thiệt phải chịu cảnh làm lẽ, bị người khác xỉ nhục, chà đạp. Cũng là cảnh đi làm vợ người mà sao họ bị ghẻ lạnh, bị phân biệt đối xử không khác gì một con mướn đi làm thuê, thật đáng thương tâm. Hai câu thơ trong bài Làm lẽ "Năm thì mười họa" trong câu "Năm thì mười họa chăng hay chớ", "Cố đấm ăn xôi" trong câu "Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm". Từ những điều mà chúng ta vừa phân tích trên, ta thấy thành ngữ, tục ngữ dân gian bản thân nó đã mang lại giá trị biểu đạt cao không chỉ về nội dung, ý nghĩa, tư tưởng. Ngôn ngữ dân gian nói chung, thành ngữ, tục ngữ nói riêng có một vai trò quan trọng không chỉ trong đời sống ngôn ngữ nói hàng ngày mà còn cả trong ngôn ngữ viết. Những câu thành ngữ, tục ngữ của dân gian đã được Hồ Xuân Hương nhào nặn, gọt giũa thành đứa con tinh thần của mình. Để những câu thơ đó vừa mang lại giá trị ngữ nghĩa vừa chuyển tải hết hàm nghĩa của nó mà không làm phai nhạt đi ngôn ngữ của dân gian thì quả thực không hề đơn giản một chút nào. Ta biết rằng thành ngữ, tục ngữ là tổ hợp từ cố định rất dễ nhớ, dễ thuộc chứa đựng tính khái quát cao, mang tính giáo dục, khuyên răn là rất lớn. Vì thế thành ngữ, tục ngữ xuất hiện trong thơ nó đem đến cho câu thơ một cảm giác gần gũi, giản dị, mộc mạc. Đồng thời bản thân nó cũng mang nhiều tầng ý nghĩa thông qua liên tưởng, tư duy của bạn đọc. Điều đó không có nghĩa là ta phủ nhận tất cả những giá trị của một nền văn chương dân tộc vốn đã trải qua hàng trăm năm lịch sử, thứ ngôn ngữ mà tất cả chúng ta từ khi ra đời ai cũng phải được học tập và được tiếp xúc hàng ngày. Điều đáng nói ở đây chính là thông qua học hỏi, tìm hiểu chúng ta cảm nhận được vẻ đẹp vốn có của ngôn ngữ dân tộc. Đặc biệt là giúp chúng ta thấy được năng lực, sáng tạo trong việc vận dụng thành ngữ, tục ngữ dân gian của Bà chúa thơ Nôm.
Ngôn ngữ dân gian nói chung, thành ngữ tục ngữ nói riêng có một vai trò, giá trị tinh thần rất lớn trong đời sống, ngôn ngữ nói hàng ngày và cả trong ngôn ngữ Việt. Tục ngữ, thành ngữ qua ngòi bút của Hồ Xuân Hương đã trở thành một công cụ hữu hiệu trong việc tạo hình, tạo nghĩa cho thơ ca. Khi nó được xuất hiện trong thơ Hồ Xuân Hương tạo một cảm giác gần gũi, bình dị, mộc mạc và sát hơn với ngôn ngữ của quần chúng nhân dân. Đó là lý do vì sao ta hay gọi Hồ Xuân Hương là nhà thơ nôm na bởi như thế. Hồ Xuân Hương đã tìm về với ngọn nguồn thi liệu xưa, ngọn nguồn của thành ngữ, tục ngữ. Đến đây tâm hồn nhà thơ đã hòa cùng với nhịp đập quần chúng nhân dân lao động, chan chứa phong vị đồng quê dân giã.
2.2. Các phương thức biểu đạt
2.2.1. Các thủ pháp tương phản
Hồ Xuân Hương còn sử dụng thủ pháp tương phản để tạo nên những nét nổi bật. Trong bài thơ "Mời Trầu" Hồ Xuân Hương đã mượn màu sắc thắm đỏ của miếng trầu đối lập với màu xanh của lá trầu, với màu trắng của sắc vôi thể hiện một ước mơ đi đến một cái gì đó thắm tươi, đậm đà như duyên chồng vợ chứ không đơn thuần chỉ là lá, là vôi. Nó như một lời nhắn nhủ, một khát vọng thủy chung, muốn đi đến hôn nhân hạnh phúc. Đồng thời từ sự tách biệt của “vôi trắng, lá xanh”, nhà thơ cũng dự cảm đến của sự hờ hững bạc bẽo về đường tình duyên long đong, trắc trở. Phải chăng bà quá nhạy cảm đôi khi đến nghiệt ngã nên nỗi đắng cay, khổ cực cứ bám riết cuộc đời bà!
Hồ Xuân Hương đã triệt để sử dụng những cặp từ đối ứng nhau, như: "Trai/gái, trên/dưới, giữa/ngoài, chành ra/khép lại"... Những cặp đối ứng nhau như vậy, ngoài sự khớp nghĩa giữa từng câu thơ còn gợi nên những cặp đôi khác như đực/cái, nam/nữ, âm/dương tạo thành nghĩa lấp lửng. "Câu thơ Hồ Xuân Hương khác với thơ Đường chính hiệu thuộc về câu phán đoán, lại là câu trần thuật miêu tả. Nó không sử dụng hư từ làm chất kết nối mà sử dụng sự đăng đối" [11, tr. 97]:
Kiểu cấu trúc đăng đối “không mà có, có mà không”:
- Những kẻ không/ mà có mới ngoan
- Mõ thảm không khua/ mà cũng cốc
- Chuông sầu không đánh/ cớ sao om
- Chôn chặt văn chương ba thước đất / Tung hô hồ thỉ bốn phương trời.
Ba câu trên theo kiểu “không mà có”: không mà có (cũng, cớ), câu cuối theo kiểu “có mà không”: chôn chặt nhưng lại tung hô, giam hãm nhưng không giam hãm được.
"Câu thơ của Hồ Xuân Hương là chính đối, không chỉ đối nhau về nghĩa, về từ loại, bằng trắc mà cả nhịp điệu nữa. Nhịp điệu vừa song hành, vừa đối dụng với nhau như chính là nhịp điệu của con người đang thực hành cái nghi thức để sản sinh ra muôn vật vậy, đó phải chăng cũng là nhịp điệu của vũ trụ?" [11, tr.97].
Trong những bài thơ thể hiện nỗi đau, nỗi buồn cho thân phận, Hồ Xuân Hương cũng sử dụng phép so sánh, miêu tả rất thành công, đó là hình ảnh của những người vợ lẽ cô đơn, lẻ loi chịu nhiều thiệt thòi đối lập với người vợ cả tròn đầy, ấm áp. Cái ấm áp của người vợ cả "kẻ đắp chăn bông" còn cái lạnh lùng của người vợ lẽ với sự hẩm hiu "kẻ lạnh lùng, năm thì mười họa, cố đấm ăn xôi, làm mướn không công...". Cái khổ của người vợ lẽ là vô cùng, họ chẳng khác gì con đòi đứa ở. Cái khổ ấy không chỉ khổ về vật chất nữa mà còn là cái tủi nhục, suy cho cùng đó không chỉ là nỗi đau của riêng ai mà đó là tiếng khóc chung của nhân loại khóc cho những người phụ nữ kém may mắn trong cuộc đời này.
Ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương như đã nói ở trên, đã sử dụng đậm đặc từ chỉ hành động cơ năng, tính từ chỉ tính chất và mức độ, dùng nhiều từ láy. Thành ngữ, tục ngữ, ca dao được tác giả sử dụng sáng tạo, bị bẻ vụn đan cài vào, cả những tiếng chưởi rủa nên đã khắc họa được rõ nét sự sống ở nhiều dạng vẻ khác nhau một cách cụ thể, gây cảm giác và ấn tượng mạnh. Điều này đã làm mất đi, ít nhiều là vẻ bề ngoài những ấn tượng ban đầu, tính chất thuần nhất của thể loại thơ Đường, mất đi tính trang trọng, đài các, bác học vốn là những nét đặc sắc, những nét khu biệt của thơ Đường mà đỉnh cao phải kể đến là Bà Huyện Thanh Quan. Nhưng điều đáng nói ở đây là bất chấp tất cả sự phi đối xứng đó, ấn tượng thẩm mỹ của thơ Hồ Xuân Hương không hề bị giảm sút mà ngày càng được độc giả chấp nhận, yêu mến và kính phục.
2.2.2. Miêu tả các trò chơi dân gian
Hội hè là một hình thức sinh hoạt tiếp giáp với đời sống và nghệ thuật. Trong những dịp hội hè, người ta thường tổ chức những trò chơi dân gian. Đối tượng là tất cả mọi tầng lớp trong xã hội, mọi người tụ hội về đây cùng đắm mình trong những thú vui bình dị, vứt bỏ hết những lo toan, toan tính bộn bề của đời sống thường nhật cùng nhau vui chơi, cười đùa quên hết những mệt mỏi của công việc. Đây cũng là điều kiện để họ chống lại mọi thứ ràng buộc của xã hội đối với con người. Người ta mạnh dạn tìm đến với cuộc sống phàm tục để lôi hết tất cả những gì là hợm hĩnh, là cao cả thiêng liêng xuống bình diện vật chất, xác thịt. Nét văn hóa ấy trở thành phổ biến như một trào lưu nhất là khi chế độ phong kiến suy thái đến cùng cực. Ở nước ta cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX mà văn học dân gian là đồ chiếu đậm nét nhất, phải chăng chính điều đó đã ảnh hưởng lớn vào thơ Xuân Hương đến vậy? Đọc thơ Hồ Xuân Hương, ngẫm về các trò chơi trong thơ bà ta thấy nó đều mang âm hưởng của dân gian.
Bài thơ "Đánh đu" viết về cảnh vui xuân của các cặp đôi trai gái vào dịp tết ở Miền Bắc nước ta. Cho đến nay các lễ hội ngày xuân vẫn còn giữ nguyên trò chơi chơi đu. Cái khó bước đầu là việc chọn tre và trồng cây đu sao cho khi đu phải nhẹ, an toàn và bay càng cao càng tốt:
Trai đu gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi đu không nhất thiết phải chơi đôi, nhưng một trai một gái là cuộc thi thử sức lòng dũng cảm. Khi chàng trai nhấn đu cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng, chờ đón độ cao bay bổng và khi độ cao đã giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón...Tất cả đều phải nhịp nhàng, khỏe mà mềm mại, bay cao mà ung dung bình tĩnh. Họ tung bay giữa không trung giữa những ngày xuân đẹp trời, cùng cười đùa bên nhau. Âu đó cũng là một niềm hạnh phúc nhỏ nhoi ngắn ngủi.
Đọc bài thơ lên ta thấy hiển nhiên nó không chỉ mang một nghĩa duy nhất, thơ Xuân Hương là thế lúc nào cũng lấp lửng hai mặt. Đánh đu cũng mang một nghĩa khác là hoạt động tính giao. Khi cây đu hoạt động cũng chính là sự chuyển động của người đàn ông từ tư thế nằm dưới lên nằm trên rồi lại từ trên xuống dưới. Đây là sự bù trừ, trao đổi cho nhau sự giao hòa năng lượng nam nữ mang ý nghĩa phồn thực. Bài thơ tả cảnh đánh đu thật tuyệt vời. Từng bước những chuyển động, những màu sắc, không khí vui tươi của mùa xuân hòa cùng trời đất và lòng người.
Những hình tượng trên cộng với cách dùng từ đôi nghĩa như "trồng" (chồng). Các từ láy đôi ám chỉ như: khéo khéo, khom khom, ngửa ngửa, phới phới, song song... Làm cho bài thơ dậy lên một nghĩa khác. Đó chính là biểu tượng của tính phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hương và trong nền văn hóa tín ngưỡng của dân gian. Nó mang trong mình những dấu tích tuy bị thời gian làm chìm khuất nhưng không bao giờ mất đi của tín ngưỡng phồn thực. Đó chính là nhựa sống là nguồn cảm hứng của bất cứ nền thi ca nào.
2.2.3. Sử dụng hình thức kiểu câu đố dân gian
Câu đố là một thể loại văn học dân gian mà chức năng chủ yếu là phản ánh đặc điểm của sự vật, hiện tượng bằng phương pháp dấu tên và nghệ thuật chuyển hóa gây nhiễu (chuyển vật nọ thành vật kia), được nhân dân dùng trong sinh hoạt tập thể để thử tài suy đoán, kiểm tra sự hiểu biết mà mua vui, giải trí. Đơn vị tác phẩm của thể loại này gọi là câu, vì nó đều rất ngắn, tương tự như những câu tục ngữ và ca dao: “Anh lớn mặc áo đỏ. Em nhỏ mặc áo xanh” (Quả ớt). Nhưng cũng có không ít những câu đố dài:
Con hai đứa ở hai nơi
Gặp nhau một chỗ cùng chơi một phòng
Không may nhà sập đá chồng
Tan xương nát thịt máu hồng chứa chan
(Trầu cau và việc ăn trầu)
Tuy có nhiều tác dụng khác nhau (như đức dục, mỹ dục), nhưng tác dụng chủ yếu của câu đố là trí dục. Lối ẩn dụ của câu đố là lối ẩn dụ riêng, khác với lối ẩn dụ thông dụng trong văn học nghệ thuật. Dựa vào những biểu hiện khác nhau về nội dung, hình thức, người ta còn chia câu đố thành các loại, các nhóm khác nhau, như đố tục giảng thanh, loại đố chữ, loại đố nói và đố giảng.
Giống như trò chơi dân gian thì câu đố trong thơ Hồ Xuân Hương cũng khởi nguồn từ dân gian mà ra. Câu đố dân gian thường thể hiện trí tuệ của con người trước các đồ vật, sự vật, hiện tượng tự nhiên xảy ra xung quanh đời sống con người. Thơ Hồ Xuân Hương đã vận dụng rất thàmh công phương thức dân gian ấy.
Trong câu đố của dân gian cũng có một câu đố về Hồ Xuân Hương như sau:
Mất đòn cân tạo hóa
Đành khép túi càn khôn
Tròn méo mặc miệng thế
Vẫn giữ tấm lòng son
(Là ai? - là Hồ Xuân Hương)
Vậy trong lĩnh vực câu đố dân gian, Xuân Hương đã vận dụng phương thức ấy như thế nào? Các bài thơ Mời Trầu, Ốc nhồi, Hỏi trăng, Vịnh cái quạt, Đèo Ba Dội... là những sự vật, hiện tượng lấy từ tích câu đố mà ra. Ví dụ như bài thơ Đèo Ba Dội của Hồ Xuân Hương:
Một đèo một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tác cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu...
Trong dân gian có câu đố:
Đèo nào mỗi bước chồn chân
Khiến người quân tử hiền nhân ngại ngùng
Vừa leo vừa nghỉ ba lần
Ai qua ai cũng bâng khuâng đứng nhìn?
(Đèo Ba Dội)
Hay Xuân Hương có bài thơ Con Cua:
Em có mai xanh, có yếm vàng
Ba quân khiêng kiệu, kiệu nghênh ngang
Xin cho ông Khổng về Đông Lỗ
Học thói Bàn Canh nấu chín Thang.
Trong câu đố dân gian cũng có câu đố về con cua như sau:
Không đầu không cổ
Mắt ở trên chân
Không có xương gân
Thân mình vẫn cứng
(Con cua)
Bài thơ Dệt vải của Xuân Hương cũng có tích từ câu đố dân gian:
Xương sườn, xương sống
Không có thịt co da
Chim đậu ở trên lưng
Guốc đi ở dưới bụng
Giúp ích cho người ta
Khỏi trần truồng như nhộng.
(Khung dệt cửi)
Cái quạt giấy cũng được xuất hiện trong câu đố dân gian:
Thân gầy chỉ có da xương
Khi vui xòe rộng cánh hường vẫy tung
Trời dù lặng gió đốt nung
Vẫn nghe mát mẻ khắp cùng năm châu.
(Cái quạt giấy)
Bài thơ "Mời Trầu" trong thơ Hồ Xuân Hương, Câu đố dân gian lại được nhắc đến tục mời trầu - một phong tục mang đậm cộng đồng của người Việt:
Đố tục giảng thanh
Mở miệng mời anh
Hai tay bưng đít?
(Mời trầu)
Trong bài thơ "Hòa thượng bị ong đốt" của Hồ Xuân Hương, con ong được nhắc đến trong bài thơ như một cái cớ nhằm mỉa mai, châm chọc những nhà sư nào là mũ thâm là nón tu lờ. Họ khoác trên mình áo cà sa của phật tổ mà làm toàn chuyện bậy bạ, tục tĩu, bẩn thỉu. Trong câu đố dân gian cũng có một bài thơ đó về con ong nhưng với một ý nghĩa hoàn toàn khác.
Con gì chỉ thích yêu hoa
Ở đâu hoa nở dù xa vẫn tìm
Tháng năm cần mẫn ngày đên
Chắt chiu mật quý lặng im tặng đời?
(Con ong)
Trong bài thơ "Hỏi trăng" của Hồ Xuân Hương, hình ảnh mặt trăng, ánh trăng và hình ảnh chị Hằng Nga đã được nhắc đến với một ý nghĩa rất riêng. Đó là sự hòa trộn giữa "tình riêng" với "tình nước non" như một câu hỏi chưa có lời đáp. Hơi hướng của bài thơ như một sự bỏ ngỏ dành cho người đọc tự trả lời, tự mình chiêm nghiệm. Trong câu đố dân gian cũng có câu đố về Mặt trăng và về chị Hằng Nga như sau:
Ở giữa thì bảo là già
Hai đầu nối lại vậy là còn non
Quẩn quanh trong cái vòng tròn
Bảo già cũng gật, bảo non cũng ừ?
( Mặt trăng)
Muôn triệu người thế gian
Đêm đêm luống mơ màng
Cô thì luôn hờ hững
Lơ lửng ở non ngàn
Cô tên gì ai biết?
(Cô Hằng Nga)
Hồ Xuân Hương đã vận dụng rất thành công những tích của câu đố dân gian xưa để đưa vào thơ mình một cách linh hoạt, tài tình. Phải là một người rất tinh tế nhạy bén, am hiểu sâu sắc đời sống của quần chúng nhân dân, Xuân Hương mới xây dựng nên những hình tượng như thế. Đây là một biệt tài của Xuân Hương so với các nhà thơ khác, việc sử dụng câu đố của dân gian để đưa vào thơ mình một cách nhuần nhuyễn như thế quả thực không hề đơn giản một chút nào. Đây là một thành công lớn của Xuân Hương trong quá trình vận dụng, dân gian hóa thể thơ dân tộc.
Tiểu kết: Chất liệu dân gian được dùng trong thơ Hồ Xuân Hương là khá đậm đặc. Chất liệu dân gian thể hiện trong cách dùng từ ngữ, cách sử dụng thành ngữ, tục ngữ và chơi chữ. Chất liệu dân gian còn thể hiện qua việc dùng các phương thức dân gian như dùng hình thức đố, miêu tả các trò chơi dân gian và qua đó để ẩn dụ, ám chỉ một vật, một hiện tượng xã hội nào đấy. Hồ Xuân Hương sử dụng triệt để lối ăn nói dân gian theo kiểu ỡm ờ, hai mặt, đa nghĩa thông qua việc dùng các từ láy, các cách chơi chữ. Cách sử dụng chất liệu và các phương thức dân gian đã làm cho thơ bà có giá trị biểu đạt cao, hàm ngôn, đa nghĩa nên tùy vào từng hoàn cảnh, từng tình huống, từng vị thế xã hội của mỗi người mà có thể hiểu một cách khác nhau. Nó gợi nên những ý tưởng mới lạ cho người đọc, làm cho người này tức tối nhưng người khác lại thích thú hả hê. Tất cả những hiệu quả biểu đạt ấy chỉ được thể hiện từ chất liệu dân gian.