![]() |
Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua đoạn thơ cuối trong bài thơ đất nước
Gắn bó với vận mệnh dân tộc và đất nước là đặc điểm nổi bật của nền văn học Việt Nam.Từ xưa,
văn học đã song hành cùng dân tộc trên suốt hằnh trình dựng nước và giữ nước.Nhưng có lẽ,chưa bao giờ cảm hứng yêu nước lại thể hiện một cách phong phú và mãnh liệt như trong văn học giai đoạn 1945_1975.nhiêdu thế hệ nhà văn,nhà thơ đã tập trung ngợi ca tình cảm thiêng liêng này:Quang dũng(Tây tiến),Tố hữu(nước non ngàn dặm),nguyễn đình thi(đất nước),lê anh xuân(dáng đứng việt nam).....Trong dòng chảy chung ấy,không thể không nhắc tới Nguyễn Khoa Điềm với đoaajn trích Đất nước.Đoạn thơ đã thể hiện thành công tư tưởng đất nước là của nhân dân. "Những người vợ nhớ chồng góp cho đất nước những núi vọng phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn trống mái Gót ngựa thánh gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi dựng đất tổ hùng vương" Xưa nay khi nói về không gian địa lý,đặc biệt là các danh lam thắng cảnh.ng ta thường ngợi ca sự hào phóng của tự nhiên,sự ưu ái của tạo hoá.Còn ở đây,qua cách miêu tả của Nguyễn khoa điềm ,toàn b ộ không gian địa lý ấy đã trở thành tặng vật của nhân dân cho đất nước. Điệp khúc "góp cho" trở đi trở lại trong những dòng thơ biến mỗi câu thơ thành một lời khẳng định công lao to lớn của nhân dân.NHững ng vợ nhớ chồng không đắp nên những trái núi Vọng Phu rải rác trên khắp mọi miền của đất nước bằng đôi bàn tay mình ,nhưng họ đãgosp cho đất nước những cuộc chia ly,những năm tháng đợi chờ đằg đẵng.Nếu không có tình yêu,nỗi đau và lòng chung thuỷ của bao nhiêu thế hệ phụ nữ từng đọi chờ,mong mỏi thì núi chit là núi,chỉ là đá vô tri,vô giác mà thôi.Chính họ đã hoá thân thành những Vọng phu vòi vọi giữa trời.Cũng thế,nhờ ánh mắt của những cặp vợ chồng yêu nhau thì hai tảng đá ngoài khơi xa mới hoá thành đôi trống mái tình tứ,hoà thuận và đầm ấm bên nhau. Không chỉ thế,bằng trí tưởng tượng phong phú và tình yêu đát nước ,nhân dân đã tạo nên linh hồn cho cảnh vật,núi sông...Những ao đầm vùng đồng bằng và những ngọn đồi trùng điệp miền trung du vốn là đặc điểm địa hình của từng miền đất.Vậy mà trong câu thiow của Nguyễn khoa điềm mỗi không gian ấy đều chứa đựng một sức sống riêng. "Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho đất nước núi bút , non nghiên Con cóc,con gà quê hương góp cho Hạ long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên ông Đốc.ông trang,bà Đen,bà Điểm" Nhà thơ vẫn tiếp tục nối mạch suy tưởng được khơi lên khi cảm nhận về không gian địa lý của đát nước.Đối diện với bất kì địa hình nào ,miền đất nào tác giả cũng thấy sự hiện diện của nhân dân.Chính nhân dân đã hình dung những dòng sông như con rôdng hoá thân mang nguồn nước mát lành,bồi đắp phù sa,nuôi dưỡng sự sống.nhìn núi Bút .non nghiêng cũng liên tưởng đến người học trog nghèo nào đó đã bền gan,vững chí trên con đường rùi mài kinh sử.......... Cảm hứng ngợi ca vai trò của nhân dân còn đươhc thể hiện qua cách nhìn của nhà thơ về thời gian lịch sử. 'Em ơi em Hẫy nhìn rất xa vào bốn nghìn năm đất nước Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái,con trai bằng tuổi chúng ta..........." Nguyễn khoa điềm đã mang đến một cách nhìn mới mẻ và sâu sắc về lịch sử,Nhà thơ tô đậm hình ảnh của những đám đông người người lớp lớp.Đặc biệt là những người trẻ tuổi.Qua cách miêu tả của nhà thơ,bốn nghìn lớp người đông đảo ấy hiện lên vừa bình thường ,vừa cao cả,phi thường. "Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh" Chỉ vài dòng thơ ngắn nhừn đã khắc học hình tượng nhân dân trên cái nền của thời gian,lịch sử.Họ là những con người bình dị,hiền hoà tròn cuộc sống "cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó".Nhưng khi có giặc,họ sẵn sàng hiến dâng cuộc đời mình như thể đây là một lẽ tự nhiên.Và bằng chính cuộc đời mình, họ đã tạo ra lịch sử: "Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm nên đất nước........ Tư tưởng đất nước là của nhân dân được thể hiện ở cả chiều sâu của bản sắc văn hoá................... Từ những cảm xúc trên,Nguyễn khó điềm đã thức tỉnh trách nhiệm thiêng liêng của mỗi ngươì và đặc biệt của thế hệ trẻ với quá khứ ,tương lai.Chất chính luận ấy hoà quyện viớ chất trữ tình đằm thắm của cảm xúc đã mang lại sức rung đọng lớn cho đoạn trích... THAM KHẢO : BÀI VĂN ĐẠT ĐIỂM 10 ĐẠI HỌC 2008 Câu 1 (2 điểm): Anh/ chị hãy nêu những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám. Nam Cao là một nhà văn lớn của nền văn học hiện thực phê phán nói riêng và là một nhà văn lớn của văn học Việt Nam nói chung. Sở dĩ Nam Cao có một vị trí xứng đáng như vậy bởi cả cuộc đờicầm bút của mình, ông luôn trăn trở để nâng cao "Đôi Mắt" của mình. Tấtcả những gì Nam Cao để lại cho cuộc đời chính là tấm gương của mộtngười "trí thức trung thực vô ngần" luôn tự đấu tranh để vươn tới nhữngcảnh sống và tâm hồn thật đẹp. Với những nét tiêu biểu như vậy, Nam Caođã thể hiện qua một hệ thống các quan điểm sáng tác của mình trước cáchmạng tháng Tám. Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám được thể hiện qua "Trăng Sáng" và "Đời Thừa". Trong "TrăngSáng", nhà văn quan niệm văn chương nghệ thuật phải "vị nhân sinh", nhàvăn phải viết cho hay, cho chân thực những gì có thật giữa cuộc đời,giữa xã hội mà mình đang sống. Ông viết "Chao ôi! Nghệ thuật không làánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than". Đóchính là quan điểm nghệ thuật của Nam Cao. Trước cách mạng, Nam Caomang tâm sự u uất, đó không chỉ là tâm trạng của một người nghệ sĩ "tàicao, phận thấp, chí khí uất" (Tản Đà) mà đó còn là tâm sự của ngườingư ời trí thức giàu tâm huyết nhưng lại bị xã hội đen tối bóp nghẹt sựsống. Nhưng Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà ông trở nên khinh bạc.Trái lại ông còn có một trái tim chan chứa yêu thương đối với người dânnghèo lam lũ. Chính vì lẽ đó mà văn chương của ông luôn cất lên "nhữngtiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than". Trong "Đời thừa", một tác phẩm tiêu biểu của văn NamCao trước cách mạng, Nam Cao cũng có những quan điểm nghệ thuật. Khi màta đã chọn văn chương nghệ thuật làm nghiệp của mình thì ta phải dồnhết tâm huyết cho nó, có như thế mới làm nghệ thuật tốt đư ợc. "Đói rétkhông có nghĩa lý gì đối với gã tuổi trẻ say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp.Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vậtchất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở.Hắn đọc, suy ngẫm, tìm tòi, nhận xét, suy tưởng không biết chán. Đốivới hắn lúc ấy, nghề thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có gì đángquan tâm nữa...". Nam Cao còn quan niệm người cầm bút phải có lương tâmvà trách nhiệm đối với bạn đọc, phải viết thận trọng và sâu sắc: "sựcẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là sự bất lương rồi, còn sự cẩu thảtrong văn chương thì thật là đê tiện". Với Nam Cao, bản chất của vănchương là đồng nghĩa với sự sáng tạo "văn chương không cần đến nhữngngười thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn chương chỉdung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi khơi những nguồn chưaai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Quan điểm của Nam Cao là, mộttác phẩm văn chương đích thực phải góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạnđọc: Nó phải chứa đựng một cái gì đó vừa lớn lao vừa cao cả, vừa đauđớn vừa phấn khởi: "Nó ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình,nó làm người gần người hơn". Văn nghiệp của Nam Cao (1915-1951) chủ yếu được thểhiện trước cách mạng tháng Tám. Quan điểm sáng tác thể hiện trong haitruyện "Trăng Sáng" và "Đời Thừa" giúp ta hiểu sâu hơn về Nam Cao. Quađó, ta thấy được những đóng góp về nghệ thuật cũng như tư tưởng của NamCao cho văn học Việt Nam. Từ đấy giúp ta hiểu vì sao Nam Cao - một nhàvăn chưa tròn bốn mươi tuổi lại để lại cho cuộc đời một sự nghiệp vănchương vĩ đại đến như vậy. Câu 2 (5 điểm): Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài). Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồngA Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành nhiều tài năng và tâm huyết để xâydựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953) của Tô Hoài.Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoàiđã có dịp sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi,chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm được cảm hứng để viết truyện này. TôHoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do vốn sống, tình cảmsống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa.Trong "Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật,trong đó nổi bật và đáng chú ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý vàhành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm nghệ thuật ấy thật sựphát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động củanhân vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trịhiện thực và nhân đạo của tác phẩm. Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượngnhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù làm bất cứ việc gì, cô ta cũngcúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là tâm lý của một con người cam chịu,buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mịcó nét tính cách ấy là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử.Mị không được lấy người mình yêu mà phải ăn đời ở kiếp với một người màmình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy quyền, thầnquyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa condâu gạt nợ. Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng,nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ không hơn không kém. Điều đó làmMị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý định ăn nắm lángón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quenkhổ rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình,trái tim của Mị dần chai sạn và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó. Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng củamột người yêu đời, yêu cuộc sống, mong muốn thoát khỏi hoàn cảnh sốngđen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa xuân. Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triểntheo những cung bậc tình cảm khác nhau, cung bậc sau cao hơn cung bậctrước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm thầm bài hátngười đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa...Mị ý thức được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưngsợi dây thô bạo của A Sử đã trói đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấychỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói" được tâm hồncủa một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật làmột đêm có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sauhàng ngàn đêm cô sống vật vờ như một cái xác không hồn. Đó là một đêmcô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng gọi trái tim mình. Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đờitrâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô Hoài khẳng định: cái khổcái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức sốngtiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổiđi lớp tro buồn nguội lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mịvượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị nhân đạo của tác phẩm ngờilên ở chỗ đó. Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính lànhững đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng Tây Bắc đang về. Mùa đôngrét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếplửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị tróiđứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửahơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng |
Múi giờ GMT. Hiện tại là 02:33 AM. |
Powered by: vBulletin v3.8.2
Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.