Đề 33: Qua bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm anh chị hãy làm sang tỏ quan điểm Đất nước 
là của nhân dân. 
Bài làm 
  Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ 
như Lê Anh Xuân, Bằng Việt, Nguyễn Mĩ, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Xuân Quỳnh, Lâm Thị 
Mỹ Dạ, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh…  Nguyễn Khoa  Điềm nổi  tiếng với hai tác phẩm là  trường ca 
“Mặt đường khát vọng” và bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ”. 
   Nguyễn Khoa Điềm cũng như một số nhà thơ hàng đầu của thế hệ ông đã cảm nhận sâu sắc 
thời điểm lịch sử trang nghiêm nên đã để tâm huyết vào chủ đề lớn của thơ ca là đất nước. Và tất 
nhiên để phù hợp với nội dung phong phú, rộng lớn đó, phải có một hình thức có dung lượng lớn 
là trường ca. Cho nên nhiều trường ca đã ra đời trong giai đoạn văn học này mà nổi tiếng hơn cả 
là  ba  trường  ca  “Những  người  đi tới  biển” của  Thanh  Thảo, “Đường tới  thành  phố” của Hữu 
Thỉnh và “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm. 
  “Đất nước” là một đoạn trích thuộc phần đầu chương V – chương trọng tâm của trường ca 
“Mặt  đường  khát vọng”,  (chương năm),  là  chương  trong  tâm của  tác  phẩm.  Tác  giả tập  trung 
trong chương thơ này là những cảm nhận và suy nghĩ sâu sắc về đất nước: “Đất nước này là Đất 
Nước  Nhân  Dân”. 
   Nhận thức mới mẻ ấy cũng chính là sự lựa chọn, ý thức về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối 
với đất nước và dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, thống nhất nước nhà. 
   Nguyễn  Khoa  Điềm kết hợp  giữa  trữ  tình  và  chính  luận, lối kết hợp  này  trong  thơ  giống 
Chế Lan Viên (thường các nhà thơ tự sáng tác những bài thơ dài và trường ca đều kết hợp giữa trữ 
tình và tự sự). Trữ tình – Chính luận phát huy đựơc mặt trí tuệ, thể hiện sự uyên bác với những 
kến thức sách vở triết lí, nếu biết khéo léo kết hợp với xúc cảm, với tri thứ nhỡn kiến thì sẽ tạo ra 
sự hấp dẫn lạ  lùng  cho  thơ. 
   Ta có thể hình dung chính luận trong khúc trường ca này như một sợi dây: Đất nước trường 
tồn  trong chiều dài thời  gian, trong chiều rộng  không  gian, trong phong tục tập quán,  trong tâm 
hồn và tính cách của người Việt. Bằng sợi dây dẻo dai ấy, những hạt cườm trữ tình óng ánh, lung 
linh được xâu lại thành chuỗi cườm “Đất Nước muôn đời”. 
   Ta  hãy  xem  nghệ  thuật  xâu cườm dẻo  dai, cần mẫn,  khéo  léo của  thi sĩ  Nguyễn  Khoa 
Điềm: 
 
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi 
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể. 
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn 
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” 
 
   Điệp  ngữ “Đất Nước” vọng  lên  khúc  nhạc  thiêng  liêng.  Thiêng  liêng về  thời  gian  thăm 
thẳm “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, thiêng liêng với cổ tích, thiêng liêng với “miếng trầu 
bây giờ bà ăn”, thiêng liêng với sự trưởng thành về ý thức bảo vệ Tổ quốc: 
 
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” 
 
  Nhờ “sợi chỉ” chính luận mà những “hạt cườm” của đời sống vật chất (miếng trầu, cây tre, 
tóc,  cái  kèo  cái cột, hạt gạo…)  và  đời sống  tinh  thần  (chuyện cổ  tích,  cha mẹ  thương  nhau…) 
được xâu lại tạo ra hết bất ngờ này đến bất ngờ khác: 
 
“Đất là nơi anh đến trường 
Nước là nơi em tắm 
Đất Nước là nơi ta hò hẹn 
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” 
 
  Tác giả chuyển từ những câu kể sang những câu đẳng thức, từ những  chi  tiết xa xôi đến 
những chi tiết gần gũi đậm đặc trữ tình. Ca dao thấm trong từng lời: 
 
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” 
“Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” 
 
 Nếu  thời  gian  hiện  lên  trong  “chuỗi cườm”  trữ  tình  –  chính  luận  thật  là  thiêng  liêng  thì 
không gian hiện lên thơ mộng, hùng vĩ: 
 
“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” 
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi” 
… Đất là nơi Chim về 
Nước là nơi Rồng ở 
Lạc Long Quân và Âu Cơ 
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” 
 
   Để mở rộng khái niệm đất nước, tăng cường bề dày, bề sâu của khái niệm này, tác giả điệp 
lại kiểu câu đẳng thức “Đất là…”, “Nước là…” nhưng các hình ảnh của xúc cảm, của ý tưởng đều 
mới, giống như những biến tấu trong âm nhạc vừa nhấn mạnh chủ đề, vừa mở rộng chủ đề gây ấn 
tượng mới lạ. 
   Luận lí của mạch chính luận là từ xa đến gần, từ khái quát đến cụ thể, từ ngoài vào trong, 
từ cộng đồng đến cá nhân: 
 
“Trong anh và em hôm nay 
Đều có một phần Đất Nước 
Khi hai đứa cầm tay 
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm 
Khi chúng ta cầm tay mọi người 
Đất Nước vẹn tròn, to lớn” 
 
  Những suy nghĩ về đất nước  trong mỗi cá nhân càng sâu sắc thì giọng điệu  trữ tình càng 
thống  thiết: 
 
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình 
Phải biết gắn bó và san sẻ 
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở 
Làm nên Đất Nước muôn đời…” 
 
   Để dẫn đến những suy luận về sự trường tồn của đất nước, nhà thơ đã huy động vốn kiến 
thức của sách vở, của đời sống, của lịch sử, địa lí, của truyền thuyết, của ca dao, của phong tục tập 
quán… Mỗi chi tiết đều có tính thẩm mĩ và được nuôi dưỡng trong xúc cảm của nhà thơ, cho nên 
suy luận thơ của tác giả vừa có sức thuyết phục về trí tuệ lại vừa truyền cảm. 
   Sang đoạn hai, nhà thơ phát triển và mở rộng chủ đề Đất Nước để dẫn đến chiều sâu của 
khái niệm này là “Đất Nước Nhân dân”. 
  Vẫn  là mạch  trữ  tình  –  chính  luận,  nhưng  trên sợi  chỉ  chính  luận,  ta  nhận  ra  những hạt 
cườm có màu sắc và hình dạng khác. Trên kia là những hình ảnh của “Đất Nước đã có rồi” và đây 
là những hình ảnh của con người các thời đại “góp cho Đất Nước”. Phẩm chất thi sĩ biểu hiện ở sự 
lựa chọn những “hạt cườm” để xâu vào sợi dây chính luận ấy.  
 
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu 
 
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái 
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại 
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương 
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm 
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên” 
 
 Hồi đó đất nước còn đang bị kẻ thù chia cắt, nhà thơ viết trường ca “Mặt đường khát vọng” 
ở  chiến trường, nhưng trong tư duy của nhà thơ  là một đất nước thống nhất. Những  tên đất,  tên 
núi, tên sông, sự tích, những truyền thuyết đều gắn bó máu thịt trong một cơ thể thống nhất. Vừa 
mới thấy “những núi Vọng Phu” đâu như ở Bình Định (mà núi Vọng Phu trên đất nước ta nơi nào 
chẳng có) đã thấy “hòn Trống Mái” ở Sầm Sơn (Thanh Hoá), vừa mới thấy “gót ngựa của Thánh 
Gióng” suốt dọc đường từ Bắc Ninh đến Lạng Sơn đã thấy “những con rồng” xanh thẳm ở Nam 
Bộ (sông Cửu Long). Những “núi Bút, non Nghiên” ở xứ Quảng, những “con cóc, con gà” ở Hạ 
Long, nhưng “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” đều góp phần tạo ra “một dáng hình, một 
ao ước, một lối sống ông cha”. Đất nước thống nhất trong  máu  thịt, trong xương  tuỷ,  trong tình 
cảm, trong ước vọng như thế, kẻ thù nào chia cắt được! 
   Nhưng đó chỉ là một khía cạnh tư tưởng chủ đề của khúc trường ca này. Những dòng khái 
quát sau đây mới là dòng mạch chính của chủ đề tác phẩm: 
“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy 
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” 
 
  Rồi nhà thơ chuyển từ bút pháp sử thi sang giọng điệu trữ tình, nhà thơ tâm tình với “em” 
mà tìm sự đồng cảm của hết thảy chúng ta: 
 
“Em ơi em 
Hãy nhìn rất xa 
Vào bốn nghìn năm Đất Nước 
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp 
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta 
Cần cù làm lụng 
Khi có giặc người con trai ra trận 
Người con gái trở về nuôi cái cùng con…” 
 
  Càng nhìn sâu  vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, nhà  thơ càng thấm  thía với công lao xây 
dựng, vun đắp, bảo vệ đất nước. Đặc biệt là lớp người tuổi trẻ, những “con gái, con trai bằng tuổi 
chúng ta” đã làm cho nhà thơ xúc động mãnh liệt. Có lẽ đây là trực cảm của nhà thơ đối với lớp 
thanh niên trong thời kì chống Mĩ cứu nước: 
 
“Có biết bao người con gái, con trai  
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi 
Họ đã sống và chết 
Giản dị và bình tâm 
Không ai nhớ mặt đặt tên 
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. 
 
  Chính những người anh hùng vô danh ấy đã “giữ và truyền” cho ta từ hạt lúa đến ngọn lửa, 
từ ngôn ngữ đến hành động: 
 
                                                           “Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm 
                                                               Có nội thù thì vùng lên đánh bại 
                                                        Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân” 
 
  Như vậy  là  theo mạch  chính  luận  và  suy tưởng,  tác  giả đã dẫn dắt  đến chiều sâu  chủ đề 
khúc trường ca. Nhưng tác giả không dừng ở phát hiện “Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân” 
mà còn muốn cho khái niệm này ngân vang lên trong thần thoại, trong cổ tích, trong ca dao dân 
ca. Khúc trường ca không bị khô khốc trong triết lí mà trở nên hồn nhiên, tươi mát, huyền ảo: 
 
“Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại 
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” 
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội 
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy 
Đi trả thù mà không sợ dài lâu…” 
 
  “Đất nước” là một trích đoạn hay trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn 
Khoa  Điềm. Bằng  trữ  tình  –  chính  luận,  tác  giả  đã  khéo  léo dẫn dắt  đến chủ đề  sâu sắc  là  Đất 
Nước  Nhân  Dân.  Xúc cảm  trực  tiếp,  mãnh  liệt từ cuộc  chiến đấu  sinh tử của  nhân  dân  ta trong 
cuộc kháng chiến chống Mĩ mà tác giả đã huy động tình cảm, trí tuệ, kiến thức về địa lí, lịch sử, 
văn học, đặc biệt là văn học dân gian để diễn tả sức mạnh thần kì của Nhân dân trong công cuộc 
xây dựng  và bảo vệ  đất nước. Một “Đất Nước  Nhân Dân” tươi  đẹp và thần kì  như thế sẽ chiến 
thắng bất kì kẻ thù xâm lược nào.
Tham khảo thêm:
DOWNLOAD
DOWNLOAD