Hình tương người bà trong bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt 
 
 
Bài làm: 
 
 
 
 
Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình, một tuổi thơ  trong sáng, hạnh phúc, hoặc một tuổi thơ dữ dội, đau thương,...nhưng sâu  trong trái tim mỗi người, những kỉ niệm, những hồi ức về tuổi thơ luôn  là thứ có sức ám ánh sâu sắc và lớn lao nhất cuộc đời mà ta mãi không  thể quên. Nó sẽ đi theo ta suốt những chặng đường đầy thăng trầm của đời  ta, ăn sâu vào tâm khảm và ngự trị vĩnh hằng trong tim ta...Dù tuổi thơ  ta có ngọt ngào hay cay đắng, thì vẫn còn có một hoặc nhiều con người  đã nâng đỡ ta, chăm sóc ta,... và để lại dấu ấn làm kỉ niệm sống mãi  theo thời gian, năm tháng.... Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ như  thế...Một tuổi thơ đói khổ, cô đơn nhưng lại đầy đủ, ấm áp và hạnh phúc  vô cùng! Đầy đủ, tràn đầy tình yêu thương của bà, ấm áp bởi sự quan  tâm, chăm sóc, chở che của bà những ngày xa bố mẹ và hạnh phúc bởi...có  bà! Ông đã sáng tác bài thơ “Bếp lửa” khi đang là một du học sinh ở Liên  Xô, theo dòng hồi tưởng trong một ngày mùa đông giá rét không có bà ở  bên, ông tìm về tuổi thơ được ở cùng bà với dòng chảy thời gian bên bếp  lửa bập bùng tình yêu thương ấm áp, theo nhịp đập của một con tim nhớ  nhung da diết...”Bếp lửa” không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi  ấm một đời người...”Bếp lửa” hay cùng chính là bà đang bên cháu, hình  ảnh bà đang hiện về lung linh qua ánh lửa “chờn vờn”, “chờn vờn”, đúng  không bà ơi...? 
 Bà đang nhóm bếp trong những dòng thơ đầu của cháu... 
 “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm 
 Một bếp lửa ấp iu nồng đượm 
 Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” 
 Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa” đã đi liền với các từ láy …  gợi cho ta cái cảm giác ấm áp với tình cảm chứa chan. Ta cảm nhận được  trong câu thơ đầu, bếp lửa với những ngọn lửa ấm nóng cứ “chờn vờn” sưởi  ấm cả gian nhà vào lúc sớm tinh mơ mà sương sớm xuống buốt giá một mùa  đông khi hai bà cháu sống bên nhau. Bếp lửa là hình ảnh đầu tiên mà cháu  nhớ lại khi hồi tưởng về quá khứ. Vì có hình bóng bà luôn gắn liền với  bếp lửa “rồi sớm rồi chiều” bà nhen hay bếp lửa ấy cũng ấm như lòng bà  thương cháu, ấm như tình cảm gia đình, hơi ấm của bếp lửa cũng chính là  của bà đang sưởi tim cháu, lan tỏa cả gian nhà chỉ có hai người vốn lạnh  lẽo, trống vắng,  xoa dịu nỗi cô đơn, buồn tẻ của hai bà cháu hay là ấm  cả mùa đông đầy “sương sớm” ngoài kia...? ”Ấp iu”-gợi một bàn tay nhem  nhóm lên ngọn lửa vừa đủ ấm một cách khéo, ân cần. Chính vì vậy, mặc dù  trong hai câu thơ đầu, bà không xuất hiện trực tiếp, nhưng ta thấy hình  ảnh bà đã hiện lên rất rõ. Bà đang ngồi bên bếp lưả để nhóm lên ngọn lửa  “chờn vờn”, “ấp iu nồng đượm” tình yêu thương vô bờ mà bà dành cho  cháu. Để rồi đến câu thơ thứ hai, cháu thốt lên theo dòng xúc cảm xót xa  “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” trong trái tim của cháu nhớ về người  bà gian nan, vất vả và từng trải! Chí một từ “thương” thôi cũng đủ đọng  lại ý thơ cho cả đoạn. Cháu biết lắm và cháu thương lắm bà ơi những  nhọc nhằn, “nắng mưa”, khó khăn, gian truân đời bà! Cháu hiểu lắm và cảm  lắm bà ơi những hi sinh thầm lặng của cuộc đời bà! Tình thương là vị  muối mặn của tình người, là chất keo của mối gắn bó. Chứ “thương” vốn  xuất hiện nhièu trong thơ ca trữ tình và đặc biệt xuất hiện nhiều trong  những tác phẩm nói về tình yêu thương con người. Đối tượng của tình  thương là lòng trắc ẩn và như vậy, một từ “thương” đã có thể thấy được  biết bao cảm xúc đang sống dậy trong lòng cháu, một nỗi nhớ thương cồn  cào, da diết, mãnh liệt và ước ao được trở về tuổi thơ bến bà, ngồi cạnh  bà dưới ấm áp bếp lửa và “nồng đượm” tình yêu thương...Hình ảnh bà  “biết mấy nắng mưa” cứ rõ dần, tỏ dần với sự hi sinh âm thầm, lặng lẽ.  Từ hồi ức dần dần trở về dưới những dòng thơ của tác giả, hiện ra theo  bập bùng ánh lửa kỉ niệm, chảy về quá khứ...: 
 “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói 
 Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi 
 Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy 
 Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu 
 Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay” 
 Kỉ niệm năm cháu bốn tuổi ám ảnh nhất là mùi khói và cái nghèo đói.  Những năm tháng đói khổ, người cháu cảm nhận, biết được mùi khói từ hồi  lên bốn, đó chính là nạn đói năm 1945, cái đói khủng khiếp, ghê rợn và  dai dẳng, “đói mòn đói mỏi”. Từ “mòn mỏi” được tách ra làm hai tiếng đau  đến xé lòng, nó như ăn sâu vào tâm trí đứa cháu sự ám ảnh không thể nào  quên- cái đói kéo dài làm con người mệt mỏi, kiệt sức dần, như thể từ  từ giết chết người ta vậy! Bao trùm lên toàn xã hội lúc bấy gời là cái  đói ghê rợn, cái đói lịch sử của dân tộc ta đã làm chết hơn hai triệu  người! Trong kí ức của cháu, đến giờ nó vẫn còn ám ảnh dai dẳng lắm,  khủng khiếp lắm! Hơn hai mươi năm sau, khói vẫn làm cay mắt tác giả, như  thể vừa mới “hun nhèm” thôi! Kỉ niệm ùa về ngập tràn trong tim, trong  tâm óc, và đọng lại nơi khóe mắt cay cay mùi khói của quá khứ. Cay vì  khói, vì cái đói làm những giọt nước mắt của đứa trẻ thơ dại cay xè đi  trong cảm giác “đói mòn đói mỏi”đang ăn sâu vào từng tế bào, dấy lên  trong cổ họng và dường như là cả cơ thể nỗi thèm khát cái ăn, củ khoai,  củ sắn, hay là giọt nước mắt mừng rỡ, sung sướng, hạnh phúc đến tột cùng  khi sắp được ăn cho thỏa nỗi thèm, bù lấp phần nào cái đói dai dẳng,  lúc bà đang lặng lẽ nhóm bếp lửa, tức là cháu sắp được ăn rồi đấy! Trong  tâm trí non nớt của đứa trẻ lên bốn, dù đồ ăn cũng chẳng có gì ngon,  nhưng hồi ấy là cả một thứ “sơn hào hải vị” không gì sánh bằng, cả một  điều lớn lao, vĩ đại! 
 “...Cái năm đói củ rong giềng luộc sượng 
 Cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm” 
 (Đò Lèn-Nguyễn Duy) 
 Vâng! Chỉ như thế thôi, cũng làm ấm lòng cháu và trở thành một kỉ  niệm không thể quên của đời cháu! Cái “cay” ấy còn là cái  đắng cuả  những đói khổ không chỉ của có hai bà cháu tác giả mà còn của nhiều  người khác nữa! Đến người còn không có ăn, nói chi “ngừa gầy””khô rạc”  là điều dĩ nhiên! Theo lời tâm sự của tác giả, lúc đó, để kiếm thêm tiền  nuôi gia đình, bố tác giả có đi đánh xe chạy chuyến Phùng (Đan Phượng,  Hà Tây) đi Hà Nội . Đó cũng là một kỉ niệm còn neo lại nơi tâm trí cháu,  trở thành một trong những điều ám ảnh suốt cuộc đời cháu mãi không  quên! Khổ thơ không nhắc tới bà, nhưng sao bà đẹp và lặng thầm thế! Bà  chở che cho cháu và cho cả gia đình, là cây cao bóng cả suốt những ngày  đói khổ, những giông tố ập đến phũ phàng và dai dẳng...Bà nhỏ bé mà vĩ  đại, lớn lao như thế đấy...Trong lòng cháu...! 
 Tới đây, dòng cảm xúc hòa vào dòng chảy của những câu thơ tự sự, tưới  đẫm chất trữ tình cho giọng thơ, góp phần làm cho hình ảnh bà trong bài  thơ hiện ra rõ hơn và đẹp hơn cả: 
 “Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa 
 Tu hú kêu trên những cánh đồng xa 
 Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà 
 Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế 
 Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế” 
 “Tám năm ròng”mà chỉ nghe thôi đã thấy được cái đằng đẵng, ròng rã, với  bao nhọc nhằn khó khăn, vất vả và cả nỗi sợ hãi, niềm thương nhớ da  diết nữa,...cứ đeo đẳng lấy hai bà cháu! Nhưng trong tám năm ấy ,“cháu  cùng bà nhóm lửa”, vẫn nhóm lên ngọn lửa của sự sống, của tình yêu cháy  bỏng nơi trái tim một cậu bé hồn nhiên, trong trắng tuổi lên tám.Chính  hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một  liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là  tiếng chim tu hú kêu. Âm thanh ấy sao mà da diết, khắc khoải, mà buồn  thương thế! Nó ngân dài lê thê suốt cả khổ thơ, là âm thanh của quá khứ  dội về hiện tại, làm kỉ niệm như đang sống dậy trong tâm hồn cháu. Ôi  những kỉ niệm ấy, có cả đắng và ngọt, cô đơn và hạnh phúc! Từ “tu hú”  được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm  cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm  thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh  đồng xa, lâng lâng trong lòng người cháu xa xứ. Trong văn học nghệ  thuật, tiếng chim tu hú là biểu tượng của một sự khắc khoải nhớ nhung da  diết khôn nguôi. Trong thực tế, tu hú lại là một loài chim bất hạnh,  không biết ấp trứng và làm tổ. Hạnh phúc tưởng chừng như nhỏ bé mà lại  là thiêng liêng và lớn lao nhất của cuộc đời mỗi con người, là hạnh phúc  gia đình, là phút giây sung sướng đến tột cùng khi được trông thấy đứa  con-hình hài yêu dấu-món quà vô giá mà cuộc đời ban tặng cho mình- cất  tiếng khóc chào đời, là sự mãn nguyện nhất khi có được một căn nhà, một  tổ ấm-nơi nương tựa vững chãi nhất trong những phút giây bi quan, yếu  lòng, sau mỗi vấp ngã của cuộc đời-con người ta tìm về để được an ủi, sẻ  chia một cách chân thành! Ấy vậy mà lòai chim tu hú đâu có được niềm  hạnh phúc lớn lao, thiêng liêng, đẹp đẽ nhất cuộc đời ấy! Tiếng kêu của  chúng trở vì vậy trở nên khắc khoải, mòn mỏi, mong đợi, khát khao một  điều gì đó tha thiết lắm...Ta đã từng nghe thấy tiếng kêu ấy trong “Khi  con tu hú” của Tố Hữu, làm sục sôi khao khát tự do mãnh liệt, bùng cháy  mạnh mẽ nơi người tù cách mạng, khiến anh phải thốt lên: 
 “Ta nghe hè dậy bên lòng 
 Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi! 
 Ngột làm sao, chết uất thôi! 
 Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu” 
 Tiếng kêu đầy khao khát và khắc khoải ấy cũng xuất hiện ở nỗi nhớ da  diết về quê hương và bóng người cha già quạnh hiu, cô đơn trong lòng cô  con gái tuổi thanh xuân-bài thơ “Tiếng chim tu hú” của nữ thi sĩ Anh  Thơ: 
 “Rồi tiếng chim tu hú 
 Vang suốt những mùa hè 
 Con đi dài thương nhớ 
 Mười năm chưa về quê!” 
 Ta dễ dàng cảm nhận được trong “Bếp lửa”, tiếng chim tu hú khắc khoải  làm cho dòng kỉ niệm của cháu trải dài hơn, rộng hơn và sâu hơn trong  cái không gian xa vẳng của nỗi nhớ thương...Và bà ơi khi tu hú kêu, thì  đó cũng là lúc “Bà hay kể chuyện hồi còn ở Huế”. Những câu chuyện ấy,  rất dài mà rất hay, thấm thía, hơn thế nữa, nó còn được kể qua chất  giọng ấm áp, chậm rãi, chan chưa cảm xúc và tình yêu thương của bà. Có  thể đó là những chuỗi ngày hạnh phúc khi gia đình ở Huế, bà cũng là  người hoài niệm, sâu sắc và đầy suy ngẫm...Cũng có thể đó là rất nhiều  những câu chuyện,...giống như những câu chuyện mà bà hay kể “hồi còn ở  Huế”! Vậy ư? Thế thì nhiều lắm lắm! Trong kho tàng chuyện ấy, có thể,  tuổi thơ cháu đã ướp đậm vị ngọt ngào của hương cổ tích! Cháu hào mình  vào thế giới nơi có cô Tấm thảo hiền, có chằng Thạch Sanh dũng cảm, có  mẹ con nhà Cám độc ác, tàn nhẫn, có mẹ con Lí Thông gian xảo, mưu  mô,...có cái thiện cũng như cái ác. Và hơn hết, cái thiện bao giờ cũng  thắng cái ác! Nhắc tới tuổi thơ, người ta bao giờ cũng nghĩ ngay đến  những câu chuyện cổ tích mà bà và mẹ hay kể cho con trẻ nghe, rồi bảo  chúng rút ra bài học, hoặc dăn dạy những điều hay, lẽ phải từ câu chuyện  ấy! Chuyện cổ tích mà bà kể cho cháu nghe cũng thế! Vừa đơn giản, dễ  hiểu, mà lại vừa sâu sắc, thấm đẫm tình...Bà đã ươm lên và nuôi dưỡng  trong những suy nghĩ, tình cảm của cháu ngay từ khi còn thơ dại một mầm  cây tươi tốt, đẹp đẽ, sáng ngời, nó là cái gốc để phát triển thành những  thân, những cành, những hoa, lá, những quả...sau này! 
 “Mẹ cùng cha công tác bận không về 
 Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe 
 Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học 
 Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc 
 Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà 
 Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!” 
 Những câu thơ tiếp theo  làm hiện lên một căn nhà quạnh hiu, lạnh lẽo giữa đồng, chỉ hẩm hút có  một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì ốm  yếu hom hem. Bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà  còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa ở  đây không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp,  nương náu để hai bà cháu sinh sống.Trong tám năm ấy, đất nước có chiến  tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu  vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với  đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ! Cùng bà, ngày nào  cháu cũng nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy,  người bà như một bà tiên hiện ra trong câu ch uyện cổ huyền ảo của cháu.  Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của  con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài  lên ngực áo thì đoá với cháu, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là  cách chim, là một cành hoa của riêng cháu.Tình bà cháu là vô cùng thiêng  liêng và quý giá đối với cháu. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà,  bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người  thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính  đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách  sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt  quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu  thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa  cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn  vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ  cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,... Nhà thơ bổng tự  hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?/Kêu chi hoài trên những  cánh đồng xa!”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của  đứa cháu nơi xứ người khi nghĩ lại những ngày tháng đã xa...Xen lẫn  trong đó là một niềm tự hào vì mình có bà của đứa cháu ngây thơ trước  những con chim tu hú bơ vơ cứ “kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”  ngoài kia! Cháu thương bà và cũng thương tu hú nữa! Vì cảnh ngộ của hai  bà cháu ta sao mà giống tu hú thế! Cũng hiu quạnh, cô đơn, cha mẹ thì  “bận công tác không về” mất rồi! “Tu hú ơi, hãy về ở cùng bà đi, bà sẽ  chăm sóc cho tu hú, như là bà đã chăm sóc cho ta, và tu hú sẽ không phải  bơ vơ nữa! Tu hú về với bà, thì cả bà và tu hú sẽ cùng bên nhau, không  ai cô đơn cả!”Cảm xúc này, thật giống với những cảm xúc của cô con gái  xa bố, xa vườn vải, xa quê hương trong bài thơ “Tiếng chim tu hú” của  Anh Thơ: 
 “-Tu hú ơi tu hú! 
 Kêu hoài chi vườn xanh 
 Ta còn đi đi nữa 
 Như dòng sông trôi nhanh 
 Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại  nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt  không rời. Tình yêu thương của bà dành cho cháu, của cháu đối với bà đã  để lại trong lòng cháu những kỉ niệm không bao giờ nhạt phai và nó luôn  sống mãi bởi âm thanh tiếng chim tu hú da diết ấy luôn âm vang trong tim  cháu, như tiếng lòng thổn thức của cháu luôn nhớ mong về bà... 
 Chiến tranh ! Một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì  khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai  bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia  đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi... Đốt làng là sự kiện tiêu  biểu của hậu phương trong chiến tranh, như trong truyện ngắn “Làng”của  Kim Lân, nhà ông Hai cũng bị đốt, ở bài hát“Làng tôi”của nhạc sĩ Nam  Cao, hình ảnh đau thương ấy cũng được nhắc đến...hay trong một bài thơ  cũng viết về bà rất cảm động “Đò Lèn” của Nguyễn Duy : 
 “Bom Mỹ giội nhà bà tôi bay mất 
 đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền 
 Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết 
 bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn” 
 Trong Bếp lửa  tác giả đưa hình ảnh này ra để nỗi đau riêng hòa vào nỗi đau chung của cả dân tộc, hoàn cảnh chung của cả nước : 
 “Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi 
 Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi 
 Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh 
 Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh: 
 “Bố ở chiến khu bố còn việc bố 
 Mày viết thư chớ kể này kể nọ 
 Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” 
 Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ  càng ngặt ngèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh  mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu  đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt  nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn,tài sản lớn nhất  của một đời người đã bị “cháy tàn cháy rụi”-cháy sạch sành sanh, không  còn nguyên vẹn một thứ gì, nói đúng hơn là không còn gì để mà cháy, bà  dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng  của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không  muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có  thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ/Cứ bảo  nhà vẫn đươc bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa  biết bao tình, tinh thần lắm, ý chí lắm, niềm tin của bà mạnh mẽ lắm,  trong khi “ hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi”-cảm nhận như có một sức  mạnh vô hình nào đó cứ làm người ta cúi gắm, cúi gằm mặt xuống vì đau  đớn đến não nề, không nói được một lời nào! Gian khổ, thiếu thốn, bao  nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi  tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu  mà còn là một biểu tượng rõ nét cho nhữnh người phụ nữa Việt Nam giàu  đức hi sinh, thương con qúy cháu, luôn tin tưởng vào kháng chiến, vào  cách mạng khi nhắc cháu viết thư vẫn bảo nhà bình yên để bố mẹ an tâm  công tác chiến đấu.Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa  trở thành hình ảnh ngọn, một ngọn lửa: 
 “Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen 
 Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn, 
 Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”. 
 Bà lại làm lại từ đầu, từ “lại” trong câu thơ thể hiện sự chắt chiu, sự  bắt đầu làm lại sau những khó khăn, thiếu thốn! Bà vẫn “nhen” lên bếp  lửa “rồi sớm rồi chiều”, dù “nhen” thì khó hơn là “nhóm”! Trên nền đất  cũ của ngôi nhà đã bị đốt “cháy tàn cháy rụi”, bà nhen lên một sự sống  mới, mãnh liệt hơn, dai dẳng hơn, bởi trong lòng bà “một ngọn lửa luôn ủ  sắn”, “một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”! Đó chính là ngọn lửa mà bà  đã truyền cho cháu-sức mạnh và niềm tin, để cháu vững lòng vượt qua  những khó khăn, thử thách đầu đời giống như bà đang cố gắng đây! Giặc  Pháp có thể phá làng, đót nhà, nhưng không thể dập tắt đi ngọn lửa, ấm  áp cháy mãi trong lòng bà! Ngọn lửa “chưa niềm tin dai dẳng”, ngọn lửa  mang tình yêu thương của bà, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa  đỏ hồng soi sáng cho con đường cháu đi, ngọn lửa hi vọng vào một tương  lai tốt đẹp cho tổ quốc, cho lẽ sống thiêng liêng, cao đẹp của cả dân  tộc! Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh  mẽ. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ  luôn ở cạnh cháu. Bà- một con người nhỏ bé mà vĩ đại vô cùng! Bà đốt lên  ngọn lửa cháy vĩnh hằng trong tim cháu bằng ngọn lửa mà “lòng bà luôn ủ  sẵn”, bà sưởi ấm lòng cháu trong suốt những năm tháng đã qua bằng ngọn  lửa yêu thương vô bờ! Bà nâng bước cháu đi trên con đường đời bởi ngọn  lửa của niềm tin bất diệt ấy, bà truyền cho cháu hơi ấm tình thương và  bà sáng mãi như một ngọn lửa...Không bao giờ tắt...!Bốn tuổi cháu biết  cái đói, tám tuổi cháu hiểu những câu chuyện của bà, rồi biết chiến  tranh đau khổ, gian lao của đất nước, và bắt đầu có niềm tin mà bà nhen  lên trong cháu...Và giừo đây, cháu cảm được...: 
 “Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa 
 Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ 
 Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm” 
 Nếu ở câu thơ đầu chỉ là “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”, sau một  dòng chảy dài của cảm xúc dâng trào chảy theo hồi ức thơ ấu, thì giờ đây  câu thơ đã kết lại bằng một sự suy ngẫm sâu sa: “Lận đận đời bà biết  mấy nắng mưa”! Cả câu thơ dồn vào hai từ “lận đận”-làm việc gì cũng  không thành, cứ long đong, vất vả và khó nhọc như thế suốt cả một đời!  Đó phải là một khoảng thời gian dài, một quá trình lâu để cảm biết và  hiểu sâu sắc, có lớn lên, có trưởng thành và từng trải thì mới thấm  thía, thấu hiểu lắm lắm như thế về cuộc đời bà. Câu thơ tuy không bộc lộ  cảm xúc như câu thơ trước, song, còn ý nghĩa và sâu sa hơn thế! Chữ  thương như lặn vào trong trái tim, trong đáy lòng sâu thăm thẳm của  cháu, khắc sâu vào tâm khảm cháu. Đó là một suy ngẫm rất “chín” qua cách  nhìn nhận của cuộc đời ở góc độ tuổi trưởng thành của cháu về bà, về  những thăng trầm, những “mưa”, những “nắng”, những “lận đận”mà đời bà đẫ  trải qua! Và rồi cứ như thế, bà vẫn hi sinh âm thầm lặng lẽ, mà “Mấy  chục năm rồi đến tận bây giờ /Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”. Một sự vất  vả, khó nhọc mà cũng trở thành thói quen trong cuộc đời người bà đầy  gian trân, trắc trở ấy! Bà cứ lặng thầm, lặng thầm như thế, để rồi: 
 “Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm 
 Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi 
 Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui 
 Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”. 
 Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở  cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại tình cảm sâu sắc của hai bà  cháu. Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu  thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên  đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu  đã sống vơi nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau  từng củ sắn, củ mì.“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng  dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với  xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ. Bà không chỉ là người  chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của  cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong cổ tích, bà tô màu hồng lên trên  màu xám trong tuổi thơ cháu, “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”!  Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã khơi dậy, giáo dục và  thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người, bà  nuôi dưỡng tâm hồn cháu ngay từ những ngày còn thơ dại để tạo gốc rễ cho  sự hình thành tốt đẹp mãi tới tận mai sau!Người bà kì diệu như vậy ấy,  rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim, ta có thể bắt gặp  người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh: 
 “Tiếng gà trưa 
 Mang bao nhiêu hạnh phúc 
 Đêm cháu về nằm mơ 
 Giấc ngủ hồng sắc trứng.” 
 Bà làm cho kỉ niệm những năm tháng ấy  trở thành bóng che rợp mát đi theo suốt cuộc đời cháu, khiến cháu thốt  lên trong những xúc động nghẹn ngào: “Ôi kì lại và thiêng liêng-bếp  lửa!”Tình thương và lòng nhân ái, bao la của con người mãi ấm nóng, bền  bỉ tóa sáng trường tồn. Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh  bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh  mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng  cháu. Bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với  cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trờ thành ngọn lửa luôn cháy  mãnh liệt và sưởi ấm tim cháu! 
 Để rồi giờ đây, khi đang ở xa bà nửa  vòng trái đất, nhà thơ Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà, cảm  giác nhớ nhung da diết cồn cào những hồi ức quá đẹp đẽ, ấm áp bên bà và  hình ảnh bả luôn thường trực trong tâm khảm của người cháu: 
 “Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu 
 Có lưả trăm nhà, niềm vui trăm ngả 
 Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở 
 Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?” 
 Bài thơ được kết lại trong một câu hỏi tu từ. Đó là một nỗi đau đáu nhớ  về bà! Nhà phê bình Văn Giá nhận xét:”Trong mọi trường hợp, người đán  bà dưới mái ấm gia đình thường gắn liền với nhứng gì thường nhật, thiết  thân nhất. Họ giữ cho ta có chỗ trở về sau những thăng trầm, biến cố,  thành bại ở đời. Trong dáng hình bình dị, thầm lặng khiêm nhường quá đỗi  ấy ẩn giấu một trái tim lớn đầy lòng nhân ái, khoan dung. Các câu thơ  như những làn sáng hắt ra từ ngọn lửa ấm nóng, gợi nhắc, thấm thía tâm  can người đọc.” Xa vòng tay chăm chút cuả bà để đến vơí chân trơì mới,  chính tình cảm cuả hai bà chaú đã sưởi ấm lòng tác giả trong muà đông  lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu nhỏ cuả bà ngàu xưa giờ đã trưởng thành  nhưng trong lòng vần luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà  cháu có nhau. Cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì  đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ cuả chaú đã được nuôi dưỡng để  lớn lên từ đó, trong vòng tay yêu thương chở che của bà và trong trái  tim cháy bỏng một ngọn lửa chan chứa niềm tin, tình yêu thương bà dành  cho cháu... 
 “Tôi trong suốt giữa đôi bờ hư thực 
 giữa bà tôi và tiên phật thánh thần” 
 (Đò Lèn-Nguyễn Duy) 
 Nào, giờ thì hãy nhắm mắt lại một lúc, chúng  ta sẽ thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi  bên... Bài thơ “Bếp lửa” sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền  cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm  cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong  sáng cuả ta. Những kỉ niệm thân thiết nhất của tuổi thơ luôn có sức tỏa  sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời! 
 Bà đã hiện về trong từng câu thơ chan chứa cảm xúc, tim bà mang một  ngọn lửa sưởi ấm cuộc đời cháu...trong lòng cháu...Thuở ấu thơ...Giờ  đây...Và mãi mãi... 
 “...Ở một nơi nào đấy xa xôi 
 Có thành phố, 
 ngày xưa, 
 có thành phố 
 Nơi rất ấm, tuổi thơ ta ở đó 
 Từ rất lâu, 
 đã từ lâu, 
 trôi qua... 
  
 Đêm nay tôi bước vội khỏi nhà,  
 đến ga,  
 xếp hàng mua vé: 
 "Lần đầu tiên trong nghìn năm, 
 có lẽ, 
 Cho tôi xin một vé 
 đi Tuổi Thơ." 
 Vé hạng trung- 
 Người bán vé hững hờ 
 Khe khẽ đáp: 
 Hôm nay vé hết!- 
  
 Biết làm sao 
 Vé hết, biết làm sao! 
 Đường tới Tuổi Thơ 
 còn biết hỏi nơi nào? 
 Nếu không kể 
 đôi khi ta tới đó 
 Qua trí nhớ 
 của chúng ta 
 từ nhỏ... 
 .... 
 .... 
 Ôi thành phố Tuổi Thơ- 
 bài ca ngày nhỏ 
 Chúng tôi hát- 
 Xin cảm ơn điều đó! 
 Nhưng chúng tôi không trở lại, 
 Đừng chờ! 
 Trái Đất nhiều đường, 
 Từ thành phố Tuổi Thơ 
 Chúng tôi lớn, 
 đi xa... 
 Hãy tin! 
 Và thứ lỗi!” 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |