Tác  giả
       Vũ Trọng Phụng  (1912-1939) quê nội ở Hưng Yên. Ông sống và viết văn tại Hà Nội. Sở trường về  phóng sự, được các báo chí thời bấy giờ gọi là “Ông vua phóng sự đất  Bắc”.
     Tác  phẩm:
     - Phóng sự: Cạm bẫy  người (1933), Cơm thầy cơm cô  (1936), Lục xì (1937), v.v…
     - Tiểu thuyết: Giông  tố (1936), Số đỏ (1936),  Vỡ đê (1936), Trúng số độc đắc (1938), v.v…
     - Kịch: Không một tiếng  vang (1931).
     Vũ Trọng Phụng  có tài châm biếm đả kích cái xã hội thực dân phong kiến tư sản hết sức bất công,  tàn bạo, thối nát… Ông đã sáng tạo ra những nhân vật điển hình bất hủ như Xuân  Tóc Đỏ để chế giễu cái xã hội mà ông gọi là “khốn nạn”, “chó đẻ”.
 
Xuất  xứ 
       “Hạnh phúc của một tang gia”, trích toàn bộ chương 15 tiểu thuyết “Số đỏ”, một kiệt tác của Vũ  Trọng Phụng, xuất bản năm 1936.
 
Tóm  tắt “Hạnh phúc của một tang gia”
       Sau 3 ngày ngắc  ngoải, cụ cố Tổ hơn 80 tuổi chết thật. Cụ cố Hồng, vợ chồng Văn Minh, ông  phán-mọc-sừng, cậu tú Tân, cô Tuyết… cả bọn con cháu vô cùng sung sướng. Người  chết được quan trên khám qua loa đã được khâm liệm, gần một ngày rồi mà chưa  phát phục. Sau khi cụ bà đi thu xếp việc cưới chạy tang cho Tuyết không đi đến  đâu, Văn Minh hứa là sẽ tìm cách cho Tuyết lấy chồng một cách danh giá thì cụ cố  Hồng mới cho phát phục. Bầy con cháu tưng bừng vui vẻ đi đưa giấy cáo phó, gọi  phường kèn, thuê xe đám ma. Bảy giờ sáng hôm sau thì cất đám. Có 2 tên cảnh sát  Min Đơ, Min Toa được thuê giữ trật tự. Tuyết mặc bộ đồ NGÂY THƠ đi mời trầu. Đám  ma theo cả lối Ta, Tàu, Tây. Có kiệu bát cống, có lợn quay đi lọng, có đến ba  trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa. Có lốc bốc xoảng, bu dích và vòng hoa.  Khi đám ma đi được 4 phố khi vợ chồng Typn, bà Phó Đoan và mấy người nữa đang  lào xào phê bình thái độ của Xuân thì bỗng có 6 chiếc xe, trên có sư chùa Bà  Banh, xe nào cũng che 2 lọng xuất hiện. Hai vòng hoa đồ sộ, một của báo Gõ Mõ,  một của Xuân len vào hàng đầu. Cậu tú Tân vội bấm máy. Cụ bà chạy lên, sung  sướng vì ông Đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đáp phúng viếng đến thế, và đám  ma như kể đã là danh giá nhất tất cả. Bọn quan khách thì cười tình với nhau,  bình phẩm nhau, chê bai nhau,… Lúc hạ huyệt, cậu tú Tân bắt bẻ từng người một để  chụp ảnh. Ông pháp mọc sừng, khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!” bí mật dúi vào tay Xuân  cái giấy bạc năm đồng gấp tư… Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy…
 
Phân  tích
        1. Giá trị châm biếm và đả kích cái xã hội thực dân phong kiến tư sản xấu xa,  đồi bại và thối nát.
     - Trong gia  đình, ông chết, cha chết - một cái chết làm cho nhiều người sung sướng lắm. Cụ  cố Hồng “nhắm nghiền mắt lại mơ màng”… vì cụ chắc thiên hạ “ai cũng phải khen  một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế!”. Ông phán mọc sừng sung sướng vì  ông ta không ngờ rằng “đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến thế”  nên đã được cụ cố Hồng - bố vợ - hứa sẽ chia thêm cho con gái và con rể thêm vài  nghìn đồng… Văn Minh chồng rất hạnh phúc vì từ nay cái chúc thư chia gia tài “sẽ  đi vào thời kỳ thực hành”. Cậu tú Tân được dịp dùng đến mấy cái máy ảnh. Bà Văn  Minh sung sướng vì cái mốt về những bộ đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền  đen… sẽ đem đến cho những ai có tang “được hưởng chút hạnh phúc ở đời”. Ông Typn  chờ mong các báo chí phê bình “những chế tạo của mình” trong cuộc cải cách y  phục của Âu hóa… Tuyết thì diện bộ đồ NGÂY THƠ để cho thiên hạ biết rằng “mình  chưa đánh mất cả chữ trinh”, v.v…
     - Ở ngoài xã  hội, hai viên cảnh sát MIN ĐƠ, MIN TOA., giữa lúc không có ai đáng phạt mà phạt,  đương buồn như nhà buôn vỡ nợ thì được có đám thuê nên “sung sướng cực điểm”.  Các quan khách đến đưa mà, bạn của Tuyết, Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà Phó Đoan,  những giai thanh gái lịch được dịp “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm  nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau…”. Banh thân của cụ cố Hồng đến  đưa đám ma với cái ngực “đầy những huy chương…”, với bộ râu “hoặc dài hoặc ngắn,  hoặc đen, hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn”… đến để khoe  tài, khoe đức, khoe của… Sư cụ Tăng Phú thì sung sướng vênh váo, ngồi  trên một chiếc xe vì đã “đánh đổ đượng Hội Phật giáo, và như thế là cuộc đắc  thắng đầu tiên của báo Gõ Mõ vậy”. Còn Xuân tóc Đỏ đến đưa đám với sự cố ý đến  chậm, bằng 2 vòng hoa đồ sộ, 6 chiếc xe có cắm lọng,… hắn đã làm cho Tuyết “liếc  mắt đưa tình cho nó để tỏ ý cám ơn”, làm cho cụ bà sung sướng thốt lên: “Ông Đốc  Xuân đã không giận mà lại giúp đáp phúng viếng đến thế, và đám ma như kể đã là  danh giá nhất tất cả”. Và Xuân sao không sung sướng, chỉ một câu nói: “Thưa  ngài, ngài là một người chồng mọc sừng!” mà được ông phán-mọc-sừng trả công đến  một tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư “dúi vào tay”…
     Đúng là “hạnh  phúc của một tang gia”, mặc dù lúc hạ huyệt có cụ cố Hồng mếu, ông phán-mọc-sừng  khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!”.
      2. Nghệ thuật trào phúng bậc thầy:
     - Một đám ma được kể và tả như một đám rước xách với  nhiều vai hề già có, trả có, đàn ông, đàn bà… của tầng lớp tư sản “Âu hóa” rởm.  Tác giả biểu lộ sự khinh bỉ, châm biếm sâu cay.
     - Các thủ pháp nghệ  thuật trào phúng vận dụng sắc sảo tài tình:
     + Phóng đại: cụ cố Hồng sung sướng quá vì chuyện bố  chết mà hút liền một chặp 60 điếu thuốc phiện, gắt 1872 lần câu: “Biết rồi, khổ  lắm, nói mãi!”.
     + Đặc tả những bộ râu của các ông bạn của cụ cố Hồng  rất hài hước!
     + Phục bút: Xuân đến đưa đám muộn, lúc đầu làm cho  Tuyết đau khổ “có thể muốn tự tử được”, lúc hắn đến, Tuyết liếc mắt đưa tình cho  hắn để tỏ ý cảm ơn. Và cụ bà thì thốt lên sung sướng “đám ma kể đã là danh giá  nhất tất cả!”.
     + Những vai hề: cậu tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo  thụng trắng bắt bẻ từng người “hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng…” để  chụp ảnh. Ông phán-mọc-sừng khóc to “Hứt! Hứt! Hứt!” nhưng lại bí mật giúi vào  tay Xuân tờ giấy bạc 5 đồng gấp tư… - Rất sòng phẳng trong việc mua bán “danh  lợi”!
     + Sử dụng tương phản làm nổi bật cái hài, cái rởm,  cái đồi bại, thối nát vô luân hãnh diện. Ví dụ, sư cụ Tăng Phú, v.v…
     Tóm lại, chỉ qua  một chương ngắn mà ta thấy được nghệ thuật trào phúng bậc thầy của Vũ Trọng  Phụng. “Số đỏ” quả là một kiệt tác trong nền văn xuôi Việt Nam hiện  đại. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |