Hoa cỏ ngùi ngùi  ngóng gió đông,
 Chúa xuân đâu hỡi có  hay không?
 Mây giăng ải Bắc  trông tin nhạn,
 Ngày xế non  Nam bặt  tiếng hồng.
 Bờ cõi xưa đà chia  đất khác,
 Nắng sương nay há  đội trời chung.
 Chừng nào Thánh đế  ân soi thấu.
 Một trận mưa nhuần  rửa núi sông
     Bài thơ “Xúc cảnh” còn có một cái tên khác nữa: “Ngóng gió đông”. Cái tên ấy do người đời sau đặt  ra. Vốn là lời cảm khái của nhân vật Đường Nhập Môn trong truyện thơ “Ngư Tiều y  thuật vấn đáp”. Mượn chuyện chữa bệnh cứu người, Nguyễn Đình Chiểu kín đáo  gửi gắm nỗi niềm tâm sự u uất về vận nước và cảnh  lầm than của dân tộc. Tác giả viết     “Ngư Tiều y thuật vấn đáp” trong những  năm cuối của đời mình, và sau khi đất Lục tỉnh Nam kỳ đã  rơi trọn vào tay giặc Pháp.
     “Xúc  cảnh” là một bài thơ  Đường luật thất ngôn bát cú mang vẻ đẹp toàn bích, cổ kính và trang nghiêm. Qua  một hệ thống “tượng trưng” với những “ẩn dụ”, nhà thơ mù Gia Định đã bày tỏ một  cách cảm động nỗi đau vong quốc và ước mong phục  quốc khi đồng bào và quê hương “đều mắc hại cùng cờ ba  sắc”.
      1. Hai câu đề là mọt nỗi chờ mong:
 “Hoa cỏ ngùi ngùi  ngóng gió đông,
 Chúa xuân đâu hỡi có  hay không?”
     Hoa cỏ đang tàn  lụi mong ngóng gió đông (gió mùa xuân) thổi về được hồi sinh.
     Chúa xuân  – chúa của muôn loài  có thấu nỗi chờ mong ấy? Câu hỏi tu từ diễn tả nỗi khắc khoải ngóng trông, có ít  nhiều trách móc, vì ngóng mãi trông hoài rồi. Câu thơ mang hàm nghĩa. Hoa cỏ là một ẩn dụ, là một cách nói của nho gia,  của các nhà thơ xưa, chỉ sĩ phu và dân chúng. “Ngùi ngùi là buồn lặng, buồn lâu,  là sự héo hon tàn lụi. Có ngóng có  trông đã nhiều ngày đêm mới có tâm trạng  “ngùi ngùi” đau đáu ấy. Chúa xuân là ai?  Ở đâu và có hay không? Chúa xuân được nói rõ ở câu 7, ấy là Thánh đế, trong tâm hồn nhà thơ là một ông vua lý  tưởng, ra tay dẹp loạn, cứu nước yên dân. Hai câu đầu gợi tả cảnh tang thương  của đất Nam Kỳ và nỗi đau thương khắc khoải chờ mong của đồng bào Lục tỉnh, mà  tác giả nhiều lần nói tới: “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin  quan như trời hạn trông mưa” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc), hoặc: “Cỏ cây đưa  nhánh đón đường – Như tuồng muốn hỏi  Đông Hoàng ở đâu?” (Ngư Tiều y thuật vấn  đáp). Vần thơ tuy chỉ nói hoa cỏ nhưng  tràn ngập tình cảm thương xót nhân dân lầm than. Đó là chất thơ thâm trầm, đậm  đà màu sắc cổ điển.
      2. Phần thực mở rộng và khắc sâu ý thơ “ngóng gió đông” ở hai câu  đề:
 “Mây giăng ải Bắc  trông tin nhạn,
 Ngày xế non  Nam bặt  tiếng hồng.”
     Ải Bắc thì “mây  giăng” mù mịt. Trông mãi trông hoài một tin nhạn – một đạo hùng binh  từ ải Bắc kéo vào. Nhưng ở non Nam, chờ đợi mãi, bao tháng bao ngày đã trôi qua,  ngày đã “xế” trong cảnh hoàng hôn vẫn “bặt tiếng hồng”. Ải Bắc và non  Nam là hai miền đất  nước, là xứ sở quê hương. Nhạn và  hồng (ngỗng trời), trong thi văn cổ, là  loài chim đưa tin, là biểu tượng cho tin tức. “Trông tin nhạn” với “bặt tiếng  hồng” đối nhau làm nổi bật sự ngóng và trông đến tuyệt vọng. Đó là nỗi lòng của  đồng bào Lục tỉnh và thảm cảnh của đất nước ta trước và sau năm 1884. Nguyễn  Đình Chiểu là nhà thơ mù đầy mẫn cảm. Trong thơ ông, những từ như “ngóng”,  “trông”, “chừng nào”, “đợi”,… mang nhiều ám ảnh và đầy tâm trạng:
             “Nhớ câu  vạn bệnh hồi xuân,
             Đôi ngày  luống đợi Đông quân cứu đời”
                                                  (Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
     Nguyễn Đình  Chiểu còn “trông tin nhạn”, còn “luống đợi Đông quân cứu đời”,… nhưng hơn 20 năm  sau, Yên Đổ thao thức giữa đêm thu và bồn chồn; ngơ ngác hỏi: “Một tiếng trên  không ngỗng nước nào?” (Thu vịnh).
      3. Giọng thơ từ thương cảm nghẹn ngào ở 4 câu đầu chuyển thành căm thù uất hận,  vang lên như một lời thề nung nấu. Cách ngắt nhịp  3–4 tạo thành một biến  tấu đầy rung động:
             “Bờ cõi  xưa/ đà chia đất khác
             Nắng  sương nay/ há đội trời chung”
     “Bờ cõi xưa” là  Tổ quốc ngàn đời” đã chia đất khác”, đã bị quân thù giày xéo, đã bị Triều đình  cắt cho giặc Pháp 3 tỉnh miền Đông, rồi cắt nốt 3 tỉnh miền Tây, dâng nộp cho  chúng. “Nắng sương” là ngày, đêm. “Há” - tiếng cổ, nghĩa quyết không thể. “Há  đội trời chung” là quyết không đội trời chung với giặc Pháp. Cũng là cách nói  truyền thống biểu lộ một tinh thần quyết tử trong thơ văn cổ. Trong phần  luận bài thơ này là một lời thề trang nghiêm. Trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần  Giuộc”, ông đã nguyền: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp  cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia…”. Thái độ quyết liệt ấy còn được thể  hiện ở sự chối từ của nhà thơ khi chính quyền thực dân hứa trả lại ruộng cho  ông, ông đã dứt khoát bảo chúng: “Đất chung còn bị mất, đất riêng còn có được  sao?”. Thái độ quyết không đội trời chung với giặc của Nguyễn Đình Chiều, của  các chiến sĩ yêu nước mãi mãi là bài học về lòng  trung nghĩa cho mỗi chúng ta.
      4. Nếu ở câu 1 là “ngóng gió đông”, câu 3 là “trông tin nhạn”, thì câu 7 là một  tiếng hỏi, một lời chất vấn, là một sự mong đợi: 
 “Chừng nào Thánh đế  ân soi thấu.
 Một trận mưa nhuần  rửa núi sông”
     Câu thứ 2 hỏi:  “Chúa xuân đâu hỡi có hay không?”, hỏi bằng một ẩn dụ. Câu 7 hỏi trực tiếp.  “Thánh đế” tức là hỏi vua. Đằng sau câu hỏi là một lời trách nhà vua chưa “soi  thấu”, chưa hết lòng vì nước vì dân. Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho, cho nên  trong cảnh “súng giặc đất rền”, tâm hồn ông trước sau vẫn hướng về một “Thánh  đế”, một “Đông quân”, một “Đông hoàng”. Vua đã phản bội đầu hàng rồi, còn đâu  “Thánh đế” nữa? Đó là một hạn chế của thời đại mà Nguyễn Đình Chiểu một nhà nho  khó lòng vượt qua.
     Câu thứ 8, niềm  mơ ước được thể hiện qua hình ảnh ẩn dụ “một trận mưa nhuần”. Trận mưa ấy “rửa  núi sông”, rửa sạch hận thù, rửa sạch nỗi đau, nỗi nhục mất nước, rửa sạch “mùi  tinh chiên vấy vá”… mùi dơ bẩn của loài dê chó, của lũ sài lang. Đất nước trở  lại thanh bình, hoa cỏ được hồi sinh, nhân dân sống trong yên vui hạnh phúc là  mơ ước của ông.
     Tóm  lại, “Xúc cảnh” là một bài thơ tuyệt bút.  Một hệ thống ẩn dụ tượng trưng tạo nên tính đa  nghĩa của bài thơ. Nỗi niềm chờ trông, mong đợi, một quyết tâm không  đội trời chung với giặc, lúc cảm thương, khi căm giận, giọng điệu đa thanh, biến hóa vô cùng xúc động. “Xúc cảnh”  đích thực là một bài ca yêu nước, thể hiện tâm  hồn trung nghĩa của nhà thơ mù  miền Nam mãi mãi vằng vặc như sao Bắc đẩu. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |