Phân tích khổ thơ đầu bài đây thôn Vĩ Dạ
Bài làm
Hàn Mặc Tử là nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác và đi vào lòng người cũng một cách rất tự nhiên sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho độc giả. Một trong những bài thơ như thế chính là bài thơ “ Đây thôn vĩ dạ”, bài thơ nhắc tới miền quê xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa yêu kiều như chính người con gái mà tác giả đang thầm thương trộm nhớ. Không những thế, bài thơ còn nói lên niềm khát khao, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của thi sĩ.
Không giống với các bài thơ khác,mở đầu bài thơ “ đây thôn Vĩ Dạ” lại không phải là một câu miêu tả hay câu cảm thán, mà là câu hỏi tu từ:” Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ được khơi nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc, viết cho Hàn Mặc Tử, những lời thơ khiến cảm xúc của tác giả ùa về, lại khơi gợi ra những nỗi nhớ về một miền thơ mộng hữu tình. Mở đầu chỉ với 4 câu thơ ngắn ngủi thôi, nhưng cảm xúc lay động tới độc giả là không hề nhỏ:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Lại nói về câu hỏi tu từ ở câu đầu của bài thơ, mở đầu một câu hỏi đã lạ, lại mở đầu với câu hỏi mà không có người trả lời,khiến mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khó tả. Tuy không ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ, nhưng bằng với nỗi nhớ diết da đã đưa Hàn Mặc Tử về với quê hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc,hờn dỗi của một cô gái như thủ thỉ rằng, sao lâu rồi mà tác giả không về thăm quê lấy một lần. Câu hỏi vốn đưa ra không phải để trả lời, mà gợi ra cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nó giống như một lời mời gọi, vừa như là một lời giới thiệu mà cũng là sự tiếc nuối của chính tác giả lâu không về thăm thôn Vĩ. “ Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời tự vẫn, tự trách móc mình.
Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao nhiêu cảnh, vừa có nắng vừa màu sắc rực rỡ, lại vừa có hình ảnh của những cành trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài cái độc đáo của tác giả là gợi ra sự tưởng tượng mới lạ cho chính người đọc:
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Không trực tiếp ở Vĩ Dạ, nhưng với nỗi niềm nhớ Vĩ Dạ tha thiết khiến tác giả có thể tưởng tương ra cảnh chính mình đang đặt bước chân về với quê hương thân yêu. Mỗi câu thơ như dẫn ra một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế, ngôn từ dùng để miêu tả khung cảnh, không chỉ đẹp mà còn có tính gợi. Mọi thứ như đều hoà hợp và ánh lên một vẻ đẹp thanh tú, thuần khiết. Hình ảnh hàng cau gợi ra những vẻ đẹp thanh thoát, cao vút và vươn lên đón ánh nắng sớm mai. Len lỏi vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ lại vừa dịu dàng, như trải lên cho Vĩ Dạ một vẻ thân thiện lại đầy sự mời mọc. Nắng ở đây càng trở nên đẹp hơn, kì lạ hơn khi tác giả khoác cho nó với ngôn từ “ nắng mới lên thật tinh khiết mà cũng thật trong trẻo,không một chút gợn của một ngày dài đã trải qua
Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào khung cảnh của thôn Vĩ, và với biện pháp so sánh, những vườn tược nơi đây đã trở thành những thứ mà dưới con mắt của một người nghệ sĩ được hóa thành chốn hữu tình:” vườn ai mướt quá xanh như ngọc” . dường như cây cối ở thôn Vĩ quanh năm tốt tưới, từ “ mướt” được sử dụng ở đây quả thật không quá chút nào, xanh mướt, mơn mởn và đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với từ ngữ mang tính tượng hình cao, cảnh vật nơi đây như càng thêm huyền bí,đẹp đẽ, vừa có màu của nắng mới lên, vừa có màu xanh mướt của những khu vườn, mọi thứ đều tươi mới, đầy nhựa sống. Câu cuối của khổ 1 gợi ra nhiều suy nghĩ và liên tưởng nhất:” Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Phải chăng là hình ảnh lá trúc đang sà xuống những khu vườn vuông vắn tươi đẹp của xứ huế, hay những cành trúc đang buông mình trước cửa của những ngôi nhà xứ Huế. Đâu đấy lại gợi ra vẻ e ấp của cô gái Huế với khuôn mặt phúc hậu, gợi ra vẻ đẹp duyên dáng mà cũng kín đáo.
Chỉ với 4 câu thơ thôi, mà Hàn Mặc Tử như vừa dẫn chúng ta đi tới thôn Vĩ vậy,một vẻ e ấp. Tươi đẹp hiện ra , rất hài hòa nhưng đúng chất của một Huế thơ mộng. Tất cả chỉ được khơi gợi qua hoài niệm của tác giả nhưng mọi thứ lại trở nên có hồn thanh khiết , đầy sức sống.
Nếu nhân loại không còn khao khát nữa
Và nhà thơ – nghề chẳng kẻ nào yêu
Người – Thi sĩ – cuối cùng vẫn là Hàn Mặc Tử
Vẫn hiện lên ở đáy vực đợi chờ.
(Trần Ninh Hổ)
Hàn Mặc Tử “thi nhân của những mối tình” "khuấy" mãi không thành khối. Tử yêu nhiều nhưng chua xót nhận ra rằng: Trăng là người bạn tình và là người bạn tình chung thủy cuối cùng của đời mình. Trong đời thơ, đời người quá ngắn, Hàn say mê bốn thiếu nữ (Hoàng Cúc, Mộng Cầm, Mài Đình, Ngọc Sương). Hoàng Cúc, một thiếu nữ thôn Vĩ Giạ, là mối tình đầu của Tử, hai người quen nhau ở Qui Nhơn. Tử là nhân viên Sở Đạc điền, còn cha Hoàng Cúc là chủ sở. Hàn thầm yêu Hoàng Cúc từ năm 1936, nhưng Vĩ rụt rè nên chỉ dám bộc bạch tâm sự cùng thơ và bạn bè… Năm 1939 biết Tử mắc bệnh nan y, lại được người khác nhắc nhở, thúc giục, Hoàng Cúc gửi tặng thi nhân Hàn Mặc Tử bưu ảnh phong cảnh Huế và mây dòng hỏi thăm mà không kí tên. Hàn lầm tưởng đó là cảnh "Bến Vĩ Giạ lúc hừng đông hay đêm trăng?". Để tạ lòng cố nhân, Tử gửi tặng Hoàng Cúc bài "Đây thôn Vĩ Giạ". Đọc bài thơ này, người vô tâm mây cũng không thể không nhớ khổ thơ đầu:
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?
Cảm nhận "Đây thôn Vĩ Giạ" phải gắn với mối tình đầu của Tử và Hoàng Cúc.
Nhưng lâu nay, bị ám ảnh bởi yếu tố ngoài văn bản ngôn ngữ – đặc biệt là ý kiến "Hoàng Cúc đã gửi cho Hàn Mặc Tử một tấm hình cô mặc áo dài trắng trường Đồng Khánh (…), và trách Hàn Mặc Tử sao lâu nay không ra thăm Vĩ Giạ" nên nhiều người đã hiểu câu thơ mở đầu bài thơ là lời trách nhẹ nhàng, nhỏ nhẹ – đúng là giọng hờn dịu ngọt của các cô gái Huế trách mà cứ như là chào mời khách về thăm thôn Vĩ. Những lời bình ấy xem ra có lẽ thoát ly văn bản. Căn cứ vào đâu mà nói: "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" là câu hỏi trách móc của một thôn nữ. Hơn nữa, như Hoàng Cúc khẳng định: sau tấm bưu ảnh, không có lời trách móc nào. Làm sao lại có thể trách người đang từng giờ, từng phút đợi tử thần đến mang đi? Thơ trữ tình là thơ hướng nội. Thơ Hàn Mặc Tử càng là thơ hướng nội. Câu hỏi "Sao anh không về chơi thôn Vĩ?" có thể là câu tự vấn của chính bản thân Tử. "Anh" ở đây là đại từ nhân xưng được dùng ở ngôi thứ nhất, chứ không phải ở ngôi thứ hai. Một câu hỏi mang tính chất giãi bày. Câu thơ thể hiện niềm nuối tiếc. Nhân vật trữ tình đã tự trách mình sao lại không về chơi thôn Vĩ. Dòng thơ đượm buồn, có pha chút hối hận. Cả bài "Đây thôn Vĩ Giạ" phải chăng là để trả lời câu hỏi đã đặt ra ở câu đầu tiên của bài thơ. (Có lẽ nên đặt dấu chấm hỏi ở vị trí cuối cùng của dòng thơ thứ hai thì hợp lí hơn).
Trước khi tạo nên bài "Đây thôn Vĩ Giạ" bất hủ này, Hàn Mặc Tử đã có lần đi qua khu vườn nhà Hoàng Cúc ở bến Vĩ Giạ, nhưng chỉ đứng ở cổng mà nhìn vào. Ấn tượng sâu sắc đầu tiên còn lại trong độc giả khi đọc khổ thơ đầu là cảnh "bến Vĩ Giạ lúc hừng đông". Qua cảnh này, Tử muốn gửi gắm những tâm sự kín đáo nào đây? Trong muôn vàn cây, lá của Vĩ Giạ, nhà thơ nhắc đến hàng cau tắm nắng bình minh bao đời nay với người Việt Nam, cây cau vẫn gợi mối tình đôi lứa, bằng biện pháp nghệ thuật tăng cấp tiệm tiến, nhà thơ đã nhấn mạnh ý "nắng mới lên", "xanh như ngọc". Nắng bình minh (nắng mới lên) đẹp thì đẹp, nhưng qua cái nhìn của thi nhân lãng mạn nó cũng qua nhanh như "hơi rượu say" (bởi vậy liền sau cảnh hừng đông là cảnh bến sông đêm trăng buồn đến nao lòng).
"Nắng hàng cau – nắng mới lên" đi liền với "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc". Cũng là vườn mang hương vị ngọt ngào của ca dao, nhưng vườn mà Tử miêu tả khác vườn của Nguyễn Bính, ở đây, người ta thấy xuất hiện trong thơ một khu vườn "mướt quá xanh như ngọc". "Vườn ai" – vườn có một đối tượng có vẻ như phiếm chỉ, nhưng cũng có thể là vườn của người mình thương, vườn tình của cô gái.
Rõ ràng, khu vườn trong thơ Tử không phải là "vườn hồng" cũng không phải khu vườn cổ "bóng hoàng lan' mà là vườn xanh như ngọc. Phép so sánh khá mới lạ này khiến cho độc giả có thể nghĩ đến "vườn em" là vườn cành vàng lá ngọc. Vào khu vườn ấy đâu phải dễ dàng. Câu thơ thứ tư nói rõ thêm ý tưởng ấy:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Hình ảnh lá trúc góp phần làm rõ thêm tính quyền quí của khu vườn Vĩ Giạ. Khuôn mặt chữ điền bị lá trúc che ngang lâu nay đã trở thành lời thách đố đối với bao nhiêu bạn yêu thơ. Nhiều người đồng tình khẳng định khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt phúc hậu, hiền lành, trung thực, ca dao Huế đã từng có câu:
Mặt em vuông tượng chữ điền
Da em thì trắng, áo đen mặc ngoài
Lòng em có đất có trời
Có câu nhân nghĩa có lời thủy chung.
Nhà thơ quá cố Chế Lan Viên đã có ý nghi ngờ, khi ông nêu ra câu hỏi "Con gái mặt chữ điền thì đẹp gì mà Hàn Mặc Tử ca ngợi". Gương mặt chữ điền trong câu thơ là gương mặt ai? Một số người cho rằng: Gương mặt ấy chính là gương mặt Hoàng Cúc, người khác lại nghĩ là gương mặt Hàn Mặc Tử. Hình ảnh lá trúc làm nảy sinh sự tranh cãi khá gay gắt. Lá trúc thực ở ngoài đời hay lá trúc vẽ trên những bức rèm treo trước cửa các nhà quyền quí? Người ta nói: "Văn chương tự cổ vô bằng cứ" cũng không phải là không có nguyên cớ. Theo thiển nghĩ của người viết bài này thì trung tâm phát sóng của khổ thơ nằm trong chi tiết thẩm mĩ:
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
Lá trúc ấy phải ở trong vườn ngọc kia nó che khuất, che lấp cả sự phúc hậu, hiền lành, trung thực. Phải chăng nó thực sự trở thành trở lực ngăn cách tình người. Nó làm cho "Gió theo lối gió, mây đường mây"; nó tạo nên "Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay"; nó đưa đến tâm trạng hy vọng mong manh mà thất vọng tràn trề: "Có chở trăng về kịp tối nay"; nó kết lại trong một lời trách:
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Câu kết bài thơ đã trả lời khá đầy đủ lí do "Sao anh không về chơi thôn Vĩ"
Chỉ thiên về việc khai thác vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên và con người xứ Huế, có thể người bình thơ sẽ mắc phải sai lầm là không hiểu hết bi kịch tình yêu của Tử. Khi Hàn Mặc Tử viết: "Đây thôn Vĩ Giạ" thì tình cảm của thi nhân với Hoàng Cúc cũng chỉ còn trong quá vãng. (Lúc này, Hàn Mặc Tử đã yêu người khác). Hơn nữa, Tử lại đang ở trong tình trạng hoang mang, bi quan đến cực độ khi biết mình bị bệnh nan y. Khổ thơ đầu nói riêng và cả bài "Đây thôn Vĩ Giạ" nói chung vẫn nằm trong cảm hứng "đau thương" của Hàn Mặc Tử.
Dòng thơ mở đầu phảng phất chút tình riêng của thi sĩ:
"Sao anh không về chơi thôn Vĩ"
Hàn Mạc Tử có một niềm thương nỗi nhớ da diết đến xứ Huế, xuất phát từ quãng thời gian làm việc ở đây nhưng quan trọng hơn, Huế có người con gái nữ sinh trường Đồng Khánh. Chính vì thế chỉ cần có một chút gì lay động là xứ Huế, thôn Vĩ lại hiện về trong hoài niệm của nhà thơ. Đây vừa là câu hỏi vừa là mời mọc nhưng dường như ở đó có sự hờn trách. Chủ thể trữ tình có thể là người thôn Vĩ, cũng có thể là sự phân thân của tác giả. Hàn Mạc Tử tự phân mình ra thành 2 để vừa hỏi vừa trả lời, hướng tới một thôn Vĩ trông hoài niệm có thể chẳng bao giờ tới được nữa. Lời hỏi không dùng từ "thăm" mà dùng từ "chơi" bởi "thăm" thì mang sắc thái xa lạ, xã giao - còn từ "chơi" gợi một quan hệ thân tình mật thiết hơn. Lời thơ cũng mang một nỗi đau bởi từ "không về" cho thấy những ước mong thề hẹn đã vĩnh viễn xa rời. Mượn hình thức một lời trách hỏi là cách để thi sĩ bày tỏ khao khát được về lại thôn Vĩ vườn xưa người cũ. Dẫu biết là không thể về những sao cứ da diết nhớ mong hoài vậy - câu thơ đầu tiên đã có một sự đối lập tương phản giữa ước ao với hiện thực phũ phàm. Nhưng trên hết, nó mở đường cho thi sĩ làm một cuộc hành trình về Vĩ Dạ trong tâm tưởng. Xứ Huế và thôn Vĩ hiện lên trong hoài niệm thật đẹp:
"Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền".
Vẻ đẹp của vườn nhà thôn Vĩ là sự tổng hòa của nắng, hàng cau, khu vườn, lá trúc...Là sự cân đối cao - thấp, sự hài hòa về màu sắc và thẩm mĩ. Ấn tượng đầu tiên của thi sĩ trong cuộc trở về đó là Vĩ Dạ ngập tràn sắc nắng. Điệp từ "nắng" được lặp lại hai lần giúp người đọc hình dung ra ánh sáng thế giới rực rỡ - đúng là thế giới của hoài niệm, thế giới của tâm tưởng. Trong thơ Hàn Mạc Tử, hoài niệm có lúc ngập tràn nắng như thế: "Chị ấy năm nay còn gánh thóc, dọc bờ sông trắng nắng chang chang" (Mùa xuân chín). "Hình ảnh nắng hàng cau" vừa gợi hình ảnh thanh toát, vuốt thẳng rất đặc trưng cho thiên nhiên thôn Vĩ, vừa gợi sự liên tưởng về bước đi của thời gian mà mỗi cây cau là một thước đo, khi cau là loài cây đón những tia sáng đầu tiên trong ngày. Nhân vật trữ tình đã có cái nhìn bao quát từ xa để thu được cả một bức tranh rộng lớn, đã ngước mắt nhìn và nhìn thấy hàng cau trong nắng ban mai, chắc chắn sẽ phát hiện ra những hạt sương long lanh đọng lại trên tàu cau được ánh sáng mặt trời chiếu vào càng trở nên trong trẻo, thanh khiết. "Nắng mới lên" là thứ ánh nắng đầu tiên trong ngày. Buổi bình minh, từ sáng sớm Vĩ Dạ đã đầy nắng rồi. Nó không phải là "nắng ửng" nó miêu tả một sự vận động, sự khởi đầu cho một ngày mới đầy hi vọng.
Nét đặc trưng của Vĩ Dạ là quần thể nhà vườn - những ngôi nhà nhỏ xinh nằm giữa những miệt vườn xanh mát. Thi sĩ đã lại gần hơn với Vĩ Dạ, đã hướng cái nhìn xuống thấp để phát hiện ra vẻ tươi tốt của sắc lá. Cụm từ "mướt quá" miêu tả vẻ thanh tân, mượt mà non tơ trên từng chiếc lá. Câu thơ giống như một tiếng reo vui cùng sự ngỡ ngàng của Hàn Mạc Tử khi lần đầu tiên (và cũng có thể không bao giờ nữa) nhận ra vẻ láng bóng, sơn sắc của cây cối thôn Vĩ. Hình ảnh so sánh: "Xanh như ngọc" gợi ra một màu xanh mát rượi "một màu xanh vừa có sắc lại vừa có ánh". Sắc vàng của ánh nắng cùng sự ngồn ngộn của sắc xanh tạo nên một thế giới trinh bạch không nhuốm bụi trần. Hàn Mạc Tử đã tạo nên một Vĩ Dạ của riêng mình bằng cảm hứng lãng mạn và những vần thơ trong trẻo tươi sáng vô ngần. Đây là điều hiếm gặp trong thế giới "Thơ điên", "đau thương" của hồn, máu, trăng....Và vì thế, Đây thôn Vĩ Dạ trở nên quý giá. Câu thơ cuối là hình ảnh người thôn Vĩ được vẽ ra bằng bút pháp gợi:
"Lá trúc che ngang mặt trữ điền".
Khi hình dung về vẻ đẹp truyền thống của người Việt xưa, chúng ta thường thấy đó là vẻ e ấp, dịu dàng, tình tứ của những gương mặt giấu sau vành nón quai thao hay nón lá. Vậy nên trong vẻ đẹp của con người ở câu thơ thứ tư này có sự gần gũi với thẩm mỹ truyền thống của dân tộc. Khuôn mặt chữ điền là khuôn mặt của người thôn Vĩ, hay là khuôn mặt của tác giả đang đứng nép mình sau vành lá trúc, chỉ dám đứng từ xa quan sát chứ không dám lại gần? Dù hiểu theo cách nào chăng nữa nó cũng mang ý nghĩa biểu trưng: khuôn mặt đầy đặn, vuông vức phản ánh vẻ đẹp trung thực, phúc hậu của con người.
Tóm lại, khổ thơ thứ nhất của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ miêu tả vẻ đẹp hài hòa của cảnh và người thôn Vĩ, cùng với tình yêu tha thiết của Hàn Mạc Tử hướng về Vĩ Dạ. Tâm trạng của nhà thơ chủ yếu là say mê, gắn bó, tha thiết nhưng vẫn có lúc phấp phỏng lo âu bởi cảnh đẹp, người mong chờ mà "anh" không về được.
|
|
|
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TIM KIẾM PHÍA TRÊN WEB
ĐÃ CẬP NHẬT HẾT SÁCH GIẢI CÁC MÔN CÁC LỚP VUI LÒNG ĐÁNH TÊN BÀI KÈM LỚP PHÍA TRÊN TÌM KIẾM
|
|