| 
| 
 
Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa  cho tập Thơ Thơ của Xuân Diệu, đã có nhận  xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài  người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” .  Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm  lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuâ ntới,  những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm  xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ  Vội vàng, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn  mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì!Làm thơ xuân vốn là một  truyền thống của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang  một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 –  1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân cá thể giàu cảm xúc của các  nhà thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân  chín…”, một Nguyễn Bính với “mùaxuân là cả một mùa xanh…”. Nhưng có lẽ  Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái  rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng là lời tâm tình với mùa xuân của  trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sống.
 Bài thơ mở đầu bằng những ước muốn thật kì lạ:
 Tôi muốn tắt nắng đi
 Cho màu đừng nhạt mất
 Tôi muốn buộc gió lại
 Cho hương đừng bay đi
 Con người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ! Anh ta  có những ước muốn và đòi hỏi thật vô lí, muốn vượt ra khỏi qui luật bình  thường của tạo hoá. Nhưng qui luật thời gian vẫn lạnh lùng nghiệt ngã,  nắng vẫn chầm chậm trôi về cuối ngày, gió vẫn lang thang hoài không  nghỉ, báo hiệu cho tàn phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất phát từ  điểm nhìn của một cái tôi chủ quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn diễn  giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn: giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp cuộc  đời, hưởng thụ tận cùng màu sắc và hương vị của sự sống.
 Điều nhà  thơ “muốn” trong một không gian ngập đầy nắng gió đã nói lên ý thức về  thời gian trong tâm tưởng con người: nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia li,  như có lần Xuân Diệu đã từng chứng kiến:
 Đương lúc hoàng hôn xuống
 Là giờ viễn khách đi
 Nước đượm màu li biệt
 Trời vương hương biệt li
 (Viễn khách)
 Ý niệm về thời gian ấy còn là nỗi lo sợ cho tương lai “Đời trôi chảy  lòng ta không vĩnh viễn” nên trái tim “giục giã” nhà thơ bày tỏ nỗi niềm  tha thiết với mùa xuân. Mùa xuân đến, trong sự mong đợi của nhà thơ,  cùng với hương và sắc, làm bừng lên sức sống của không  gian:
 Của ong bướm này đây tuần tháng mật
 Này đây hoa của đồng nội xanh rì
 Này đây lá của cành tơ phơ phất
 Của yến anh này đây khúc tình si
 Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
 Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa
 Chưa bao giờ, trong thi ca Việt Nam, mùa xuân lại hiện ra xôn xao như  thế. Xuân không còn là bóng dáng mà đã hiện hình cụ thể đến từng chi  tiết: vẻ đẹp ngọt ngào trong “tuần tháng mật” “của ong bướm”, rực rỡ  trong “hoa của đồng nội xanh rì”, mơn mởn trong “lá của cành tơ phơ  phất”, mê đắm trong “khúc tình si” “của yến anh” và ngây ngất niềm vui  “gõ cửa” cho mọi tâm hồn bừng lên “ánh sáng”! Sức sống của mùa xuân làm  vạn vật có linh hồn, quấn quít giao cảm đến độ cuồng nhiệt. Bằng những  tiếng “này đây” vồ vập, linh hoạt giữa những hàng thơ, tạo nên điệp  khúc, Xuân Diệu háo hức như muốn sờ tận tay, chạm mặt mùa xuân. Bước  chuyển của mùa xuân nhờ vậy cũng rõ rệt hơn, bay lên cùng cái náo nức  rộn rã, mê mải trong lòng tác giả, nồng nàn và tinh tế.
 Tuyệt đỉnh của mê say là một niềm hạnh phúc:
 Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
 Mùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hoà vào hồn người.  Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sống của muôn  loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muốn của con người. Qua cách  cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sống vẫn là con người,  chuẩn mực của mọi vẻ đẹp cuộc sống vẫn là con người với tất cả khát khao  về hạnh phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một  không gian xuân, nhà thơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng.  Niềm hạnh phúc trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống!
 Mùa xuân đem đến  cho chàng trai Xuân Diệu một niềm ham sống và men say của tình yêu.  Nhưng nhịp hoan ca bỗng khựng lại giữa chừng trong một câu thơ tách ra  hai thái cực:
 Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
 Nhà thơ cắt  nghĩa cái vội vàng ấy bằng những dự cảm của tâm hồn. Trước một niềm  khoái lạc vô biên khiến con người như bồng bềnh chao đảo trong cảm giác  ngất ngây, linh cảm về một cuộc chia li đã hiện hình rõ nét:
 Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua
 Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
 Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
 Những cái “nghĩa là” ấy gắn liền với triết lí về sự sống đã có tự ngàn  xưa, không phải là một ý niệm mới mẻ. Cách Xuân Diệu một ngàn năm, trong  thế giớ i của thơ Đường, ta đã gặp nỗi lòng của một Trần Tử Ngang trước  vũ trụ bao la:
 Ai người trước đã qua
 Ai người sau chưa lại
 Ngẫm trời đất thật vô cùng
 Riêng lòng đau mà lệ chảy
 (Bản dịch Đăng U Châu đài ca)
 Suy tư ấy có liên quan đến thân phận con người: cái hữu hạn của đời  người – cái vô hạn của đất trời. Với Xuân Diệu, khi mùa xuân đồng nghĩa  với tuổi trẻ, sự sống, tình yêu, gắn bó với cái tôi yêu đời của nhà thơ,  thì chia li đồng nghĩa với cái chết.
 Trong khi đồng nhất hoá mùa  xuân với con người, Xuân Diệu đã sống đến tận cùng cảm giác, yêu đến tận  cùng mê say và gửi cả vào mùa xuân khát vọng của một tâm hồn muốn vươn  tới cõi vô biên. Nhưng khi ý thức về thời gian đi liền với tàn phai và  hủy diệt, nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bi kịch của con người phải chịu sự  chi phối của qui luật khách quan. Đó cũng là nỗi niềm chung của con  người khi chôn vùi tuổi trẻ trong một cuộc sống đã mất ý nghĩa. “Ngán  nỗi xuân đi, xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con”, Hồ Xuân Hương  đã chẳng từng than thở đó sao? Điều đặc biệt là Xuân Diệu không thu gọn  cảm xúc trong nỗi niềm ngao ngán cho riêng bản thân. Thi nhân đã dành  hẳn một niềm “bâng khuâng”, “tiếc cả đất trời” để làm nên một cuộc chia  li bi tráng với mùa xuân:
 Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
 Khắp sông núi đều than thầm tiễn biệt
 Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc
 Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
 Chim vội vàng bỗng đứt tiếng reo thi
 Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
 Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa?
 Những cuộc chia li nổi tiếng trong lịch sử văn chương cổ kim có lẽ cũng  chỉ bùi ngùi đến vậy. Nước sông Dịch lạnh theo nỗi niềm thái tử Đan đưa  tiễn Kinh Kha sang sông hành thích bạo chúa, người chinh phụ đưa chồng  ra chiến trận “nhủ rồi nhủ lại cầm tay- bước đi một bước giây giây lại  dừng” (Chinh phụ ngâm), tất cả đều cảm động lưu luyến nhưng đó là cảnh  chia li giữa người với người. Tản Đà mượn lời “thề non nước”, “tống  biệt”, “cảm thu, tiễn thu” cũng chỉ là mượn cảnh nói người, cảm xúc man  mác lặng lẽ. Còn Xuân Diệu đã diễn tả đầy đủ đến từng chi tiết cụ thể  không khí của cuộc chia li, từ  thời gian “tháng năm”, không gian “sông  núi than” đến “cơn gió xinh hờn tủi”, chim “đứt tiếng”… Cảm quan lãng  mạn cùng hoà với suy tư về bản thân đã khắc hoạ độc đáo cảm giác tinh tế  của nhà thơ. Khung cảnh “rớm vị chia phôi” như  san sẻ nỗi niềm của thi  nhân, bật thành tiếng than não nuột “chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ  nữa”, tiếc thương cho vẻ đẹp mùa xuân, tuổi trẻ, sự sống một đi không  trở lại.
 Từ cảnh “trong gặp gỡ đã có mầm li biệt” này. trước nỗi lo  âu, linh cảm về sự tàn phai cùng dòng chảy thời gian, có một giao điểm  hội tụ tình cảm và lí trí củanhà thơ, trở thành một niềm thôi thúc cháy  bỏng:
 Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
 Đó là lời kêu gọi của  tình yêu, của đam mê và khát khao vượt ra thực tại đáng buồn để tìm đến  mùa xuân. Chính vào lúc tưởng như rợn ngợp trong sự hoang mang, nhà thơ  đã vượt lên để thể hiện rõ chất Người cao đẹp – tìm về ý nghĩa của sự  sống.
 Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày  mai vô vọng, con người ở đây sống cùng thực tại mãnh liệt, dường như  cùng với các động tác vội vàng cuống quít kia là sự cuồng nhiệt với đời:
 Ta muốn ôm
 Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
 Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
 Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
 Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
 Và non nước và mây và cỏ rạng
 Cho chếnh choáng mùi hương cho đã đầy ánh sáng
 Cho no nê thanh sắc của thời tươi
 –  Hỡi Xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
 Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ.  Nhưng đi liền với các cảm giác và hành động ôm, riết, say, thâu, hôn,  chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn, cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ  trung trong trạng thái ngây ngất. Từ thái độ ban đầu còn có chút e dè  đến thái độ vồ vập vội vàng, có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng  của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống, thâu vào  đầy đủ vẻ đẹp cuộc sống, sống thành thật với chính mình, sống hết mình.
 Thái độ sống ấy đã được nhà thơ tuân thủ suốt cuộc đời mình và ông đã  tìm ra ý nghĩa của sự sống trước ranh giới của mất mát, tàn phai và cái  chết, chiến thắng nỗi sợ hãi hư vô. Khát khao được sống, được yêu, được  giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời, Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian,  vẫn vẹn nguyên sức sống dồi dào của tuổi hai mươi:
 Trong hơi thở chót dâng trời đất
 Cũng vẫn si tình đến ngất ngư
 (Không đề – 1983)
 Bài thơ Vội vàng đã thể hiện tinh tế những giác quan bén nhạy của hồn  thơ Xuân Diệu trước mùa xuân, gắn với quan niệm sống của ông về ý nghĩa  sự sống đời người. Con Người,  với những tính cách và cảm xúc độc đáo  hiện diện trong từng câu chữ, mang nét đặc trưng của cảm quan lãng mạn.  Bài thơ còn đưa ra một quan niệm sống tích cực: phải biết tận hưởng vẻ  đẹp cuộc đời. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người  cần phải sống hết mình với cuộc sống hôm nay, sôi nổi châ nthành và  thiết tha với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử  cho cuộc đời. Lời nhắn nhủ trong Vội vàng cũng là tâm niệm suốt đời của  nhà thơ, đã làm ta hiểu hơn về “tấm lòng trần gian” của một người thơ  yêu đời mê đắm.
 |  
 
 |  |