Go Back   ๑๑۩۞۩๑๑...TuThienBao.Com...๑๑۩۞۩๑๑ > VI - ♥ Không Gian IT ♥ > 27 - Ebook Tổng Hợp - SÁCH GIẢI FULL > Khoa Học Xã Hội > Văn Học Lớp 11


Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
$$**=====DS Truyện Tranh Online=====**$$ $$**=====Truyện Tranh Mới Đang Update=====**$$

KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY


Trả lời
  #1  
28-09-2012, 01:11 PM
adminbao adminbao is offline
Đầy Tớ Của Nhân Dân
Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom

Default Hình ảnh nhà nho chân chính Cao Bá Quát qua bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát




Bài Làm 1

Như chúng ta đều biết, Cao Bá Quát là một trong những nhân vật độc đáo trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam, một người xuất thân từ Cửa Khổng sân Trình, lãnh hội nền giáo dục và tư tưởng Nho giáo và cũng đã từng lựa chọn con đường học hành, khoa cử để ra thực hiện lí tưởng của mình nhưng đã vượt ra ngoài phạm vi khuôn khổ tư tưởng Nho giáo (trong chừng mực nào đó) khi quyết định tham gia cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Để giải thích hiện tượng đó, cần có cái nhìn đa chiều, lí giải nguyên nhân không chỉ từ những tác động của bối cảnh xã hội Việt Nam đương thời, mà còn từ phía những đặc điểm cá nhân, những động lực, thúc bách và lựa chọn của cá nhân Cao Bá Quát. Bài thơ Sa hành đoản ca (được làm khi CBQ vẫn còn trên con đường khoa cử, mong có được công danh để ra giúp dân giúp nước, thực hiện lí tưởng, hoài bão của mình) thể hiện thái độ của tác giả với xã hội đương thời và phần nào hé lộ những nguyên nhân, những động lực thúc đẩy ông đến quyết định phản kháng mãnh liệt triều đình phong kiến.
1. Thái độ của Cao Bá Quát đối với công danh và xã hội đương thời.

- Trước hết phải nói, công danh đối với nhà Nho có một ý nghĩa quan trọng. Nó đã từng là lí tưởng sống, và với nhiều người, nó còn trở thành ý thức thường trực như một nghĩa vụ, một "món nợ" cần phải trả của kẻ nam nhi, là yếu tố khẳng định sự hiện tồn của cá nhân trong cuộc đời ("không công danh thà nát với cỏ cây"). Đó là nói về lí tưởng công danh với những con người có nhân cách cao khiết, có ước vọng muốn làm nên sự nghiệp lớn để giúp dân, giúp nước, để lưu danh cùng thiên cổ. Nhưng trong thời đại mà Cao Bá Quát sống (xã hội phong kiến nhà Nguyễn đầu thế kỉ XIX), nhiều giềng mối của của xã hội bị lung lay, nhiều kẻ cơ hội bon chen trên đường công danh chỉ vì mục đích tự lợi thấp hèn. Vả chăng, con đường khoa cử, kiếm tìm công danh cũng không còn được ý nghĩa tiến bộ của nó.

- Trong bài thơ Sa hành đoản ca, Cao Bá Quát cũng rất sớm nhận ra được tình trạng đó và trong lòng người trí thức ấy không khỏi băn khoăn, trăn trở. Qua hình tượng Bãi cát dài và Người đi trên bãi cát, nhà thơ đã thể hiện tâm trạng bi phẫn, sự băn khoăn, trăn trở khôn nguôi về con đường mà mình đang đi.

+ Con đường công danh, đường đời là một con đường đầy gian khó, mờ mịt, vô định (qua hình ảnh bãi cát dài nối tiếp nhau và nỗi khó khăn của người đi trên cát)

+ Trên con đường theo đuổi công danh đó, nhà thơ nhận ra có biết bao kẻ ti tiện chỉ coi công danh là miếng mồi ngon cần giành giật mà quên đi mục đích, lí tưởng cao đẹp của cuộc sống. Sức cuốn hút của công danh có thể làm mê muội, tha hóa con người (như quán rượu nơi đầu gió làm bao kẻ lữ hành khao khát, mê muội).

+ Nhận thức rõ tình trạng đó, nhà thơ băn khoăn, tự vấn quyết liệt về con đường đang đi, con đường sẽ đi. Đường bằng (Thản lộ) thì ít, lại mờ mịt mà Đường ghê sợ (con đường tha hóa, đeo đuổi công danh mà bao kẻ đang theo đuổi) thì nhiều. Cuộc đấu tranh tư tưởng dữ dội ấy nhiều lúc tưởng đã bế tắc, không tìm ra lối thoát (cùng đồ). Kết thúc bài thơ là một câu hỏi tu từ "Anh đứng làm chi trên bãi cát". Nó như một mối băn khoăn day dứt khôn nguôi đồng thời cũng là lời thúc giục, động viên, lời tác giả tự khuyến khích mình hãy dũng cảm dứt bỏ, bước ra khỏi "úy lộ" (con đường ghê sợ) để thực hiện lí tưởng, lẽ sống của mình.

2. Lí giải nguyên nhân CBQ tham gia cuộc nổi dậy chống triều đình phong kiến nhà Nguyễn

Từ toàn bộ bài thơ thấy toát lên hình ảnh một người trí thức tự nhiệm, trung thực, đầy tinh thần trách nhiệm với đất nước, với cuộc đời mình, luôn băn khoăn, day dứt về con đường đang đi. Một con người đầy bản lĩnh, quyết không chịu say, không chịu "học phép ngủ" để cùng say ngủ với biết bao kẻ dung tục trong đời. Sự băn khoăn trăn trở còn được đẩy lên mức độ căng thẳng với những lời tự tra vấn quyết liệt về lẽ sống, về con đường phải đi thể hiện một nhân cách cao cả, không chịu thỏa hiệp với dục vọng bản thân và với thực trạng xã hội đang tiềm chứa nhiều suy thoái.

Và ta thấy, ngay từ rất sớm, trong ông đã tiềm chứa ước muốn đổi thay thực trạng xã hội, quyết không chấp nhận thực tại. Khi gặp những hoàn cảnh cụ thể (khi đã chứng kiến hết cảnh thối nát chốn quan trường, thấy rõ hiện trạng xã hội, lại bị dập vùi không thương tiếc), ước muốn đó sẽ chuyển thành hành động phản kháng mãnh liệt. Và đó là một phần nguyên nhân giải thích lí do khiến CBQ đã tham gia cuộc khởi nghĩa chống lại triều đình phong kiến nhà Nguyễn năm 1854

=============================================

Bài Làm 2
Bài ca ngắn đi trên cát dựng lên hình tượng một con người đi giữa một bãi cát mênh mông, mỗi bước chân đều bị lún xuống cát, cho nên hễ tiến lên một bước lại phải lùi lại một bước. Ngay từ đầu, bài thơ đã sử dụng điệp âm, và điệp âm đặt trong cách ngắt nhịp 2/3 liên tiếp trong hai câu thơ năm chữ đã gợi lên cái cảm giác của bước chân người đi luôn luôn bị kéo giật lại :
Trường sa / phục trường sa,
Nhất bộ / nhất hồi khước.
(Cát dài / bãi cát dài,
Mỗi bước / lùi một bước)
Con người đi trong trạng thái bất thường như thế tất nhiên là đi liên miên suốt đời mà không bao giờ thấy đích. Anh ta không còn chút ấn tượng nào về thời gian, về sáng tối. Chỉ có nỗi phiền muộn cứ chất mãi lên trái tim anh :

Nhật nhập hành vị dĩ,
Khách tử lệ giao lạc.
(Mặt trời đã lặn đi chưa nghỉ,
Bộ hành nước mắt lã chã rơi).
Bài thơ cho thấy, chỉ mới ở tuổi trong ngoài ba mươi, Cao Bá Quát đã cảm nhận được sự bế tắc cùng cực của một loại hình nhà nho không hợp khuôn với chế độ hiện hành. Nhà thơ tự đặt ra một lối thoát là trong cuộc đi vô tận đó, nếu người ta có thể ngủ đi được theo phép “thụy du” của những ông tiên thì may ra mọi nỗi thống khổ mới chấm dứt. Tiếc thay phép thụy du đối với những người vốn đã quá tỉnh lại chẳng có chút gì hiệu lực. Vì thế, càng đi trong sự tỉnh táo thì mọi nỗi oán hận trong lòng người đi chỉ càng thêm chất chồng :
Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng ?
(Không học được tiên ông phép ngủ,
Trèo non lội suối giận sao nguôi ?)
Và nhà thơ lại thử làm một phép so sánh giữa loại “hành nhân” đáng gọi là tỉnh kia với vô số những người ngược xuôi vì danh lợi, thì hóa ra số người tỉnh rất ít, còn tất cả bọn họ đều là người say :
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung;
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu, túy giả đồng.
(Xưa nay phường danh lợi,
Bôn tẩu trên đường đời;
Gió thoảng hơi men trong quán rượu,
Say cả hỏi tỉnh được mấy người ?)
Sự đối lập thức / ngủ và tỉnh / say thực ra chỉ là những biện pháp loại trừ nhằm giới hạn dần và soi tỏ từng bước đặc trưng loại biệt của đối tượng. Và đến đây, cảm hứng về một con người lầm lũi đi không biết tháng biết năm, đi mà không bao giờ tới đích, đi nhưng vẫn cứ như dẫm chân tại chỗ… ở đầu bài thơ được tiếp thêm bởi cái cảm hứng về sự cô đơn tuyệt đối của chính người bộ hành ấy, đã nâng hình tượng trữ tình của bài thơ lên mức một ẩn dụ có sức ám ảnh ghê gớm : người hành nhân ấy vẫn cứ đang mải miết đi, nhưng nhìn lên phía Bắc thì muôn ngọn núi lớp lớp đã sừng sững chắn mất lối; ngoảnh về Nam, núi và sóng hàng muôn đợt cũng đã vây phủ lấy mình. Và nhìn khắp bốn phía, thì nào có còn ai, chỉ còn độc một mình mình đứng trơ trên bãi cát. Bài thơ mở đầu bằng một câu vần bằng và ba câu vần trắc, đều là câu năm chữ, như muốn ném ra giữa cuộc đời một nhận xét chua chát về sự cố gắng tìm đường vô ích. Kế tiếp là hai cặp câu vần bằng dài - ngắn và hai cặp câu vần bằng xen trắc, cùng dài nhưng khác vần, biểu hiện những quặn khúc trong quá trình cọ xát với thực tiễn của chủ thể trữ tình / con người lặn lội tìm đường một cách hoài công :
Quân bất học tiên gia mỹ thụy ông,
Đăng sơn thiệp thủy oán hà cùng/
Cổ lai danh lợi nhân,
Bôn tẩu lộ đồ trung/
Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,
Tỉnh giả thường thiểu túy giả đồng/
Trường sa trường sa nại cừ hà !
Thản lộ mang mang úy lộ đa/
Thế rồi ở phần cuối, bài thơ kết thúc bằng một câu vần bằng và ba câu vần trắc bảy chữ, báo hiệu một cái gì đang thắt lại trong tư tưởng, là cái tuyên ngôn “cùng đường” của nhà thơ. Phép điệp âm ở đây lại được sử dụng tiếp, cài vào nhau, đan chéo nhau, đẩy cảm giác nhức nhối đến cùng tột :
Thính ngã nhất xướng “cùng đồ” ca :
Bắc sơn chi Bắc / sơn vạn điệp,
Nam sơn chi Nam / ba vạn cấp;
Quân hồ vi hồ sa thượng lập ?
(Nghe ta ca “cùng đường” một khúc :
Phía Bắc núi Bắc / núi muôn lớp,
Phía Nam núi Nam / sóng muôn đợt;
Sao mình anh trơ trên bãi cát ?)
Hình ảnh kết đọng cao nhất là một con người đã mất hết ý niệm về thời gian vì những cuộc đi, lại mất luôn cả ý niệm về phương hướng vì không còn có không gian xoay trở. Đấy là con người mất ý thức về lẽ tồn tại. Nhưng câu cuối cùng của bài thơ là một câu hỏi, cho nên cần hiểu : trong cảnh ngộ tuyệt vọng, con người này vẫn luôn luôn băn khoăn thắc mắc mà không giải đáp nổi vì sao và do đâu mình lại tự đánh mất lý do tồn tại của mình.
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TIM KIẾM PHÍA TRÊN WEB
ĐÃ CẬP NHẬT HẾT SÁCH GIẢI CÁC MÔN CÁC LỚP VUI LÒNG ĐÁNH TÊN BÀI KÈM LỚP PHÍA TRÊN TÌM KIẾM

Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời

ADS
Tags
ảnh, bài, , bãi, ca, cao, cát, chân, chính, hình, ngắn, nhà, nho, qua, quát, trên, đi




© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý
truyen tranh hay, truyen tranh online, ebook,ebook ngon tinh, van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
Powered by: vBulletin v3.8.2 Copyright ©2000-2024, Jelsoft Enterprises Ltd.