Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
 
Hãy ủng hộ mua bất kỳ sản phẩm trên shopee.vn truy cập Vào Đây tìm sản phẩm rồi mua, mỗi lượt mua đều giúp duy trì website hoạt động miễn phí
KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY 
 
   	  	 
 
 
		 
	 
 
  
	
	
		
	
	
	| 
		
		 
			
				29-09-2012, 04:47 PM
			
			
			
		 
	 | 
 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Vợ Nhặt của kim lân hướng con người đến ánh sáng của sự sống và hạnh phúc
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Tác giả nói về tác phẩm: 
1. “Cái đói” là nỗi lo lắng của con người ở tất cả mọi  dân tộc và mọi   thời đại. Cho nên đó cũng thuộc về bản chất của đời  sống. Các nhà văn   viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của  con người trước nó   (…) Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là  những người đói dù   thế nào đi nữa vẫn luôn luôn khao khát cuộc sống  tốt hơn, vẫn tin tưởng   một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ  hồ” ấy là do cuộc sống   thực tại luôn hành hạ họ. 
2. Tôi muốn phân tích tâm trạng và thân phận của con  người trong cái   hoàn cảnh cùng đường ấy, nơi cuộc sống dường như không  còn lối thoát.   Tôi muốn hướng họ vào sự sống, sự thương yêu nhau,  không phải là sự   giành giật nhau (…). Bối cảnh của truyện là khi cái  đói hoành hành khắp   nơi. Nhưng các nhân vật của truyện thì đứng ở  ngưỡng cửa của cái đói.   Nơi ngưỡng cửa khốn khổ đó, họ sẽ chứng tỏ số  phận và tính cách của   mình, đồng thời ở nơi đó họ sẽ bắt đầu một niềm  tin mới, một niềm hạnh   phúc mới, dù là rất mong manh. 
3. Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa  thì tình người   vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc  sống. Có tình người   là có hy vọng vào tương lai. 
II. Một số điểm lưu ý trong quá trình tiếp cận tác phẩm: 
1. Không khí ngày đói và bối cảnh nhặt vợ: 
Cái đói hiện hình cụ thể trên nền không gian ảm đạm đầy ám ảnh  của cái   chết rình rập cuộc sống những người dân ở xóm ngụ cư. Không  gian tối  sầm  vì đói khát được mô tả đầy ấn tượng: quạ bay, thây người  chết còng   queo, người sống dật dờ, lặng lẽ như bóng ma. Cái đói hiện  hình trên   gương mặt một anh chàng vô tâm như Tràng , làm thay đổi diện  mạo và thói   quen cố hữu, đè nặng lên đôi vai, cái lưng gấu, dập tắt  “nụ cười tủm   tỉm”. Ngay cả những đứa trẻ cũng “ủ rũ”. Bầu không gian  dự báo tai ương   ập đến bất kỳ lúc nào. Ấy là những ngày đói Ất Dậu  khiến những người đã   qua năm 2000 “nhắc lại vẫn rùng mình” (Nam Cao). 
Sự kiện tương phản với hiện thực là buổi chiều Tràng về làng  cùng người   đàn bà lạ mặt. Điều không bình thường hiện ra trên khuôn  mặt “phớn phở   khác thường” và nụ cười “tủm tỉm” trở lại trên môi  Tràng. Điều khác lạ   trong thái độ của Tràng thay đổi với đám trẻ con  vốn quen suồng sã với   anh ta. Sự kiện tạo ra sự tò mò ngạc nhiên từ  trẻ con đến người lớn.   Niềm vui nho nhỏ lóe lên trong cuộc sống tăm  tối đói khát nghèo khổ   nhanh chóng bị nỗi lo thường trực về cái đói và  cái chết lấn át. Kim Lân   đã đem đến cho người đọc cảm giác ái ngại,  xót xa cho sự trớ trêu của   số phận người nghèo trước thực tại khủng  khiếp.Hạnh phúc thành hình  trên  nền cuộc sống tột cùng bi kịch, khi sự  sống bị dồn vào ngõ cụt  không  lối thoát. Con đường duyên phận thành  con đường rước thêm “cái  của nợ  đời” khiến những người biết nghĩ đều  phả ithở dài ái ngại. Bóng  tối mở  ra mênh mông, mùi gây của xác người,  tiếng quạ vẫn gào lên thê  thiết.  Nỗi bất hạnh dường như đang chờ ở  phía trước. 
2. Con đường về nhà Tràng - sự thay đổi trong tâm lý nhân vật: 
Sự thật quá lớn lao vượt quá suy nghĩ mơ ước thường nhật của anh  Tràng   nghèo khổ, xấu xí khiến Tràng không nhận biết hoàn cảnh giống  mọi  người.  Choán ngợp tâm trí Tràng lúc này là hạnh phúc của riêng  anh. Kim  Lân đã  khắc họa những chi tiết thật sống động về một gã trai  được vợ  “thích  ý”, “cái mặt cứ vênh vênh tự đắc với mình”. Cũng là  tiếng “càu  nhàu”  nhưng khác hẳn với cái “càu nhàu” của người đàn bà  cảm thấy sự  hẩm hiu  của thân phận, Tràng tỏ ra bối rối thật sự trước  hạnh phúc đang  được tận  hưởng. Mọi cử chỉ thật buồn cười: “lật đật”,  “nhìn ngang nhìn  ngửa”,  “như người xấu hổ chạy trốn”. Kim Lân đã  -----g vào giữa cảnh  đói khát  những tiếng cười hóm hỉnh về một anh  chàng có vợ để xua dần  không khí  đượm màu tang tóc ra khỏi hạnh phúc  giữa hai người. 
Ngay sau đó, một không gian đượm chất trữ tình đã hiện lên trên  “con   đường sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ tre cao ---t”. Chỉ còn  “tiếng gió   trên bờ tre rì rào và tiếng lá khô kêu sào sạo dưới bàn  chân”. Đó là   không gian dành cho những đôi lứa tâm tình. Nhưng Kim Lân  hoàn toàn   không có ý định thi vị hoá câu chuyện, bởi từ suy nghĩ đến  lời nói, hành   động của các nhân vật vẫn chập chờn những nỗi lo thường  trực. 
Chỉ “trong một lúc” ngắn ngủi nhưng nhà văn đã lý giải được sự  thay đổi   lớn lao trong tâm hồn Tràng, tạo mối dây ràng buộc hai con  người khốn   khổ lại với nhau. Dẫu chỉ là cảm nhận mơ hồ nhưng với  Tràng, khoảnh  khắc  ấy vô cùng thiêng liêng. Hạnh phúc tủm tỉm cười  cùng anh, giúp anh   “quên hết những cảnh sống ê chề, quên cả cái đói  khát ghê gớm đang đe   doạ, quên cả những tháng ngày trước mặt”. Rõ  ràng, đối với Tràng hạnh   phúc không còn là sự vô tình ngẫu nhiên nữa.  Nó giúp anh tự tin hơn, tự   chủ được tình cảm của mình. Thiêng liêng  thay phút ấy hai chữ “tình   nghĩa”, như dự báo khả năng của con người  từng bước vượt qua hoàn cảnh,   tiếp sức cho con người vượt lên định  mệnh nghiệt ngã và tạo ra mối đồng   cảm đầu tiên cho những người trước  đó còn xa lạ. 
Hạnh phúc có thể được cảm nhận rõ qua ngôn ngữ đối thoại và  tiếng cười   của những người trong cuộc. Câu chuyện giữa hai người mang  theo không   khí chờ đợi hạnh phúc đang đến, rất bình dân nhưng đã kéo  hai con người   khốn khổ xích lại gần nhau. Thật ngỡ ngàng khi đến lúc  này thị mới quan   tâm đến gia cảnh của Tràng. Vẻ ngờ nghệch của anh  trai quê đã làm nên  nụ  cười “tủm tỉm” của người đàn bà. Kim Lân quả  thật đã dụng công mô tả   tiếng cười của từng nhân vật. Từ nụ cười “tủm  tỉm” thường nhật của  Tràng  đến nụ cười “tủm tỉm” của thị đã có một ý  nghĩa khác nhau. Để rồi  niềm  vui nhân lên, lan toả làm thành khoảnh  khắc “bật cười” của Tràng  khi ngộ  ra bản thân, rồi cả âm vang “hì hì…”  ý nhị và hài hước, cuối  cùng bùng  lên thành khoảnh khắc “hắn thích  chí ngửa cổ cười khanh  khách” rồi “phì  ra cười” làm hiện rõ một anh  Tràng đang ngập tràn vui  sướng. Đó cũng là  lúc họ nói với nhau bằng  ngôn ngữ của vợ chồng, rất  quê mùa nhưng cũng  rất đáng yêu. 
Nhưng con đường - hạnh phúc ấy thật ngắn ngủi khi họ chạm vào  cái cổng   nhà Tràng, bước vào “cái nhà vắng teo rúm ró trên mảnh vườn  mọc lổn  nhổn  những búi cỏ dại”. Sự thực nghèo khó phơi bày trần trụi  khiến hạnh  phúc  bỗng trở nên chơi vơi. Tràng chỉ biết “cười cười” khoả  lấp nhưng  nỗi  thất vọng đã hiện rõ, khi “thị nhếch mép cười nhạt  nhẽo”. Đến lúc  này,  thực tại buộccon người phải đối diện với nó, khiến  con người không  dám  tự tin chính mình để làm nên hạnh phúc. Ranh giới  hạnh phúc - bất  hạnh  thật mong manh khi mọi cử chỉ, tâm trạng của thị  như nói lên tất  cả nỗi  tủi hổ, đắng cay của một kiếp đàn bà khốn khổ:  “ngồi mớm ở mép  giường,  hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”.  Không ai báo trước  được  điều gì sẽ xảy đến trong mối quan hệ của hai  con người đói khổ  ấy. May  mắn thay, giữa lúc đang “tây ngây”, “sờ sợ”,  “lấm lét”, “loanh  quanh”  rối bời ấy, Tràng vẫn còn “tủm tỉm cười”  được. Dẫu sao anh cũng  đã có  những phút giây để được sống trong hạnh  phúc. Dẫu cho hạnh phúc  ấy đang  có nguy cơ tuột khỏi tầm tay như một  trò đùa của số phận, tràng  vẫn còn  cảm giác được một cách đầy đủ về ý  nghĩa thiêng liêng của bước  ngoặt đời  mình: “Ra hắn đã có vợ rồi đấy  ư?”. Khi ý thức được nhen  lên, chắc chắn  con người có đủ dũng khí để  vượt lên hoàn cảnh, không để  hạnh phúc vuột  khỏi tầm tay. 
3. Người vợ nhặt: 
Người đàn bà mà số phận đã xô đẩy để đến với Tràng không phải là  nàng   tiên hạnh phúc. Câu chuyện được kể lại về cuộc gặp gỡ giữa họ  quả thật   là một chuyện cười ra nước mắt. Hai lần gặp gỡ, duyên phận  buộc ràng.   Kim Lân đã tạo nên những ấn tượng thật khó quên về thị -  một kẻ không   tên, không tuổi, không nhà, không lai lịch – như một nạn  nhân cùng cực   đáng thương của cái đói và miếng ăn. 
Không ít nhà văn đã từng viết về cái đói và miếng ăn trong cuộc  sống   người dân cùng trước cách mạng tháng Tám. Ngô Tất Tố đã để nước  mắt chị   Dậu rơi lã chã khi chứng kiến con mình phải ăn cơm chó (Tắt  đèn). Nam   Cao khiến ta phải rùng mình kinh sợ sức hủy diệt của cái đói  - miếng ăn   với nhân tính trong bao truyện ngắn đầy nước mắt xót  thương của ông  (Lão  Hạc, Một bữa no). Kim Lân trở về với đề tài hiện  thực cũ, đã dựng  nên  một tình huống bi hài có một không hai: bốn bát  bánh đúc nên duyên  vợ  chồng. 
Để kiếm miếng ăn, thị dường như đã đánh mất tất cả sự dịu dàng  kín đáo   thùy mị của người phụ nữ. Ngay từ lúc xuất hiện đầu tiên, thị  đã nhảy  xổ  vào Tràng với tất cả vẻ “cong cớn”, “ton ton” và ỡm ờ “liếc  mắt,  cười  tít” với gã trai xa lạ. Kim Lân khiến ta hình dung cụ thể  hoá cảnh  “trai  tứ chiếng, gái giang hồ gặp nhau”. Lần thứ hai, thị  xuất hiện  với bộ  dạng thật thê thảm và cung cách thật khó ưa. Cái đói  ghi dấu ấn  trên “áo  quần rách tả tơi như tổ đỉa”, dáng vóc “gày sọp  đi” và “khuôn  mặt lưỡi  cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Đáng sợ  hơn, nó không  chỉ biến  đổi nhân dạng mà còn lấy mất của thị lòng tự  trọng, tính sĩ  diện cần  thiết ở một con người. Nó làm cho thị trong  lời nói “sưng sỉa,  cong cớn”  qua lời nói “đon đả” chẳng còn một tư  cách người nào. Tràng  thành chiếc  phao cứu sinh để thị được ăn. Bởi ăn  là sống, không ăn là  chết. Ranh  giới sự sống – cái chết đã không cho  thị quyền chọn lựa. Thị  trở thành  hiện thân của con người bản năng. 
Còn gì chua chát hơn sau lúc “cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh  đúc liền   chẳng chuyện trò gì”, lại sẵn sàng theo không kẻ cho ăn về  làm vợ, chi   tiết ấy khiến người đọc thương hại thay cho chị. Nhân phẩm  đã mất,  dường  như thị đã biến thành nô lệ của miếng ăn, bởi sau bữa  ăn vội vàng  thô  tục ấy thị còn tiếp tục cùng Tràng “Ra hàng cơm đánh  một bữa thật  no  nê:. Ấy vậy mà tuyệt nhiên nhà văn không để bộc lộ một  mảy may thái  độ  phản ứng nào của Tràng trước những việc làm đáng  khinh của thị, nên  đọng  lại trong ta một cái nhìn đầy thương hại cho  thị mà thôi. Phải đến  khi  xuất hiện trong xóm ngụ cư, thị mới hiện lên  với đầy đủ tâm trạng,  mặc  cảm về thân phận vợ nhặt. Số phận của thị  đã ngoặt sang ngõ rẽ mới  sau  tiếng tặc lưỡi: “Chặc, kệ” của Tràng.  Nhưng cuộc sống tương lai  quá mơ  hồ với thị. Trái ngược với Tràng, thị  bước đi trong dáng “Đầu  hơi cúi  xuống”, “rón rén, e thẹn”, “chân nọ  bước díu cả vào chân kia”.  Bởi thị  sợ những ánh mắt tò mò sẽ phơi ra  sự thật phũ phàng về thân  phận vợ  nhặt. Đến lúc chỉ còn hai người với  nhau, thị cũng không giấu  nổi ánh  nhìn “tư lự”. Ám ảnh thân phận thực  sự rõ nét khi thị đã ở  trong nhà  Tràng, khi đứng trước một hiện thực  đáng thất vọng. Kim Lân  đã đặc tả  vào thái độ của thị như gợi tả bao  suy tư sâu sắc về kiếp  người trong  nhữg ngày đói quay quắt. Cái nghèo  gặp cái eo, báo cho họ  biết những  ngày túng đói đe doạ. Nếu vấn đề của  Tràng quẩn quanh trong  mong ước tạo  nên hạnh phúc bền lâu thì vấn đề  của thị lúc này là vượt  lên nạn đói.  Không có bất cứ một tín hiệu nào  bảo đảm cả hai người sẽ  vượt qua thử  thách của chính mình. Sự chờ đợi  thật nặng nề, căng thẳng.  Thị đã dễ  dàng đến với Tràng thì thị cũng dễ  dàng bỏ đi. Nhà văn đã  kéo dài khoảnh  khắc ấy để giúp người đọc hình  dung, giả định những khả  năng sẽ xảy đến  cho nhân vật, để có những suy  ngẫm cảm thông, ngậm ngùi  cho thân phận  con người trong hoàn cảnh trớ  trêu. 
4. Cuộc gặp gỡ của ba người khốn khổ: 
Bà cụ Tứ trở về nhà như bổ sung thêm vào bức tranh ảm đạm của  cuộc sống   nghèo khổ, đói kém. Vẻ lam lũ in hình trên dáng đi “lòng  khòng”, “vừa  đi  vừa lẩm bẩm tính toán”. Trong những lo toan của người  mẹ, hẳn sẽ  không  có dự tính nào cho hạnh phúc của con trai trong thời  điểm cùng  cực đói  này. Bởi vậy thái độ của Tràng làm bà ngạc nhiên một  thì sự  xuất hiện  của người đàn bà lạ làm bà ngạc nhiên mười. Sự thực  như một  ảo ảnh để bà  không thể hiểu nổi. Dầu đã có lời chào nhưng lại  làm bà  rối bời “băn  khoăn”. Vì hơn ai hết bà hiểu cảnh nhà, hiểu hoàn  cảnh con  mình không  mong có được vợ trong cả lúc yên hàn chứ chưa cần  nói đến  tao đoạn trần  ai này. Nhà văn đã dồn bút lực mô tả phút chờ  đợi căng  thẳng của đôi vợ  chồng mới làm bạn với nhau để người mẹ định  đoạt duyên  kiếp. Thời gian  như kéo dài thêm cùng tâm lý đợi chờ. Lại  càng dài hơn  khi bà cụ “cúi  đầu nín lặng” sau khi hiểu ra cớ sự. 
Những trang viết xúc động nhất của tác phẩm có lẽ gắn trọn với  tâm  trạng  mừng lo lẫn lộn của bà cụ Tứ. Tấm lòng của một người mẹ thật  bao  dung  và cũng thật đắng cay xa xót. Người đọc có thể nhìn thấy  bóng dáng  bao  bà mẹ thương con đứt ruột trong nỗi lòng bà cụ Tứ. Những  xung đột  bi  kịch được đẩy lên cao trào nhưng cũng được hoá giải phần  nào bởi  tình  thương của người mẹ. Nước mắt mẹ đã lặng lẽ rơi xuống  trong mặc  cảm thân  phận, trong nỗi đau không lo nổi hạnh phúc cho con  mình. “Lòng  người mẹ  nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự,  vừa ai oán vừa  xót  thương cho số kiếp đứa con mình”. Không khí im lặng  u uất bao trùm  lên  ngôi nhà, tâm tư bà cụ cũng ngập tràn ám ảnh đầy  bóng tối: cái  đói, cái  chết, cái nợ đèo bòng chất thêm gánh nặng. Định  mệnh như cười  cợt với  hạnh phúc, nụ cười của thần chết. Nhưng không  thể thắng được  một niềm  tin của những người chưa tắt hy vọng về tương  lai. Nó là cái  tâm lý quen  thuộc của những người nghèo khổ, thường tự  an ủi mình: 
Chớ than phận khó ai ơi 
 Còn da lông mọc, còn chồi lên cây 
Tiếng nói đòi quyền sống mãnh liệt ấy đã thôi thúc làm nên quyết  định   rất “nhẹ nhàng” trong lời nói của bà cụ Tứ “Ừ, thôi thì các con  đã phải   duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng…”. Hạnh phúc đã  vượt qua lực   cản đầu tiên. 
Nhưng cuộc sống thực không hề nhẹ nhàng, vẫn bộn bề chồng chất  nỗi lo.   Bản thân bà cụ cũng nén chịu vào lòng nỗi đau của riêng mình,  đặt vào   miệng những lời an ủi nàng dâu mới nhưng “bóng tối trùm lấy  hai con mắt   bà lão”. Trong khoảnh khắc, quá khứ tủi cực dồn về cùng  suy nghĩ cho   tương lai dâu – con. Điều cảm động là tình thương ấy đã  xoá nhoà khoảng   cách “mẹ chồng nàng dâu” nhưng cách cư xử của bà cụ Tứ  vẫn còn là sự   chịu đựng, chấp nhận hoàn cảnh, chưa phải là sức mạnh  để vượt lên hoàn   cảnh. Mỗi một lời thân mật với “”nàng dâu mới” chứa  đựng bao nỗi niềm u   uất để rồi “bà cụ không nói được nữa, nước mắt cứ  chảy xuống ròng  ròng”.  Bóng tối vẫn mênh mông. 
Kim Lân đã để vào chính lúc ấy, Tràng “đánh diêm đốt đèn”. Chính  nhà  văn  đã nói về ngọn đèn xua tan bóng tối này: “Ngọn đèn là niềm  yêu  thương,  cảm thông lẫn nhau để cùng vượt lên trên số phận buồn  thương  của họ”  (Tác giả nói về tác phẩm). Đó là ánh sáng của hy vọng,  của  quyết tâm tạo  dựng cuộc sống mới. Một lần nữa, Kim Lân lại để cho  đôi  vợ chồng mới  còn lại riêng với nhau, trong “ánh đèn vàng đục ở góc  nhà  toả ra ấm áp  và kéo dài hai cái bóng trên vách”. Nhưng lần này,  không  chỉ có tiếng họ  thầm thì trò chuyện mà còn cả “tiếng hờ khóc  ngoài xóm  lọt vào tỉ tê  lúc to lúc nhỏ”. Hạnh phúc mới phải đối mặt  với thực tại  cuộc sống những  ngày tới của lứa đôi và đêm tân hôn ấm áp  tình người đã  chống chọi với  “tiếng hờ khóc tỉ tê nghe càng rõ”. Đó  là hạnh phúc đòi  hỏi con người  phải sát lại bên nhau để vượt qua buồn  thương số phận,  cái đói và cái  chết. 
5. Ngày mới: 
“Ánh nắng buổi sáng mùa hè” đến với Tràng sau đêm tân hôn màu  nhiệm đã   giúp anh nhận ra tất cả sự “thay đổi mới mẻ, khác lạ”. Dù ở  trong trạng   thái “êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”  nhưng bước   ngoặt cuộc sống của Tràng là sự thực mà chính anh là người  hiểu rõ nhất.   Đẹp làm sao những cảm xúc của Tràng về tổ ấm của chính  anh, gắn với   viễn cảnh tương lai sáng sủa như không gian đầy nắng kia.  “Một nguồn vui   sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”, nguồn  hạnh phúc tạo   nên từ mối ràng buộc tình cảm và trách nhiệm của Tràng  với mẹ, với vợ đã   đem lại nguồn hạnh phúc lớn lao hơn cho Tràng. Anh ý  thức rõ hơn bao   giờ hết quyền được sống làm người, quyền sống của con  người. Chính anh   chứ không phải ai khác sẽ bảo vệ đến cùng quyền lợi  chính đáng ấy. 
Ngày mới đến với thị cũng thật khác lạ, làm nên vẻ đẹp của một  cô Tấm   bước ra từ quả thị trong cổ tích. Hạnh phúc mới đã trả lại cho  chị vẻ   “hiền hậu đúng mực” và chính bàn tay từng đẩy chiếc xe bò duyên  phận,   bàn tay quệt đũa ngang miệng, hôm qua đã sắp đặt, sửa sang nhà  cửa gọn   gàng sạch sẽ. Bàn tay ấy “đang quét lại cái sân, tiếng chổi  từng nhát   kêu sàn sạt trên mặt đất”. Âm vang giản dị, bình thường ấy  báo hiệu sự   hồi sinh, sức sống mới trở lại trong tâm hồn chị. Tưởng  chừng mọi nỗi lo   đã được giải toả khi ngày mới bắt đầu, ngay cả “bà mẹ  Tràng cũng nhẹ   nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u  ám của bà rạng rỡ   hẳn lên”. 
Nhưng hình ảnh “bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại” đã cho ta  biết  tất  cả mới chỉ bắt đầu. Cuộc sống mới của gia đình Tràng diễn ra  trên  nền  hiện thực còn nguyên mối đe doạ. Lùm rau chuối thái rối,  ----a muối  ăn với  cháo, câu chuyện giữa mẹ, con, dâu toàn niềm vui.  Không khí  “đầm ấm hoà  hợp” bỗng ngừng lại khi miếng ăn hết nhẵn.  Khoảnh khắc  ấykhiến người  đọc có thể chạnh lòng nhớ không khí truyện  “Nửa đêm” của  Nam Cao. Cũng  vui vẻ đầm ấm ban đầu, sau hạnh phúc vỡ  tan, để lại cay  đắng, cùng cực  cho một bà lão suốt đời “tu nhân tích  đức”. Liệu bà cụ  Tứ, Tràng, thị có  lâm vào nghịch cảnh đầy bi kịch như  vậy không? Kim  Lân đã để các nhân  vật chống chọi hoàn cảnh ấy mỗi  người một cách,  tranh đấu quyết liệt với  cái đói chết người để bảo vệ  quyền sống, hạnh  phúc họ vừa có được.  Người đọc sẽ lặng đi khi nhìn  vào miếng ăn của họ -  “chè khoán” của bà  cụ Tứ. Người mẹ tội nghiệp ấy  đã làm mọi việc có  thể để cứu vãn tình  thế, ngay cả khi nói rõ là cám  vẫn cố đánh lừa cảm  giác bằng tiếng cười  rặn ra và lời khen “ngon đáo  để”. Người vợ nhặt đã  nhận ra sự thực, dẫu  “hai mắt thị tối lại”  nhưng vẫn “điềm nhiên và  vào miệng”. Thị thật đáng  thương vì cuộc đời  chị cũng sẽ không còn lối  thoát nào khác. Tình người  thật đáng quí để  chị chấp nhận hoàn cảnh ăn  miếng ăn của loài vật này.  Chỉ có Tràng cảm  nhận rõ nhất vị cám “đắng  chát và nghẹn bứ”. Dường như  khoảnh khắc ấy  đã bùng lên sức mạnh phản  kháng trong anh. Nhưng bị bủa  vây trong  vòng cùng quẫn, những con người  ấy đã bắt đầu “tránh nhìn mặt  nhau”,  “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí  mọi người”. Sức mạnh tố cáo tội  ác  huỷ diệt sự sống của kẻ thù Pháp -  Nhật trong câu văn thật thấm thía   trong phút câm lặng đột ngột này.  Nhưng có thể nhận ra lúc ý thức rõ   nhất về hoàn cảnh cuộc sống bên  ngoài tác động, họ tránh nhìn nhau  không  phải vì sợ hãi, cũng không  phải chuẩn bị cho ánh mắt nhì nnhau  đầy thù  hận mà tủi hờn chất chứa  trong lòng sẽ giúp họ cùng nhìn về  một hướng  giải thoát khỏi cuộc sống  lầm than, hướng đến sự sống, tương  lai sẽ khác  hơn. 
Kim Lân dựng lên đoạn cuối câu chuyện khi những người cùng khổ  này nói   về “Việt Minh” và hình ảnh đoàn người đói cùng lá cờ đỏ bay  phấp phới   hiện lên trong óc Tràng, bởi điều kiện khách quan tác phẩm  hoàn thành   sau cuộc cách mạng long trời lở đất của dân tộc lật nhào bộ  máy hủy diệt   của kẻ thù dân tộc, trả lại hạnh phúc tự do thật sự cho  con người. một   kết cục làm rõ tư tưởng của tác phẩm là cần thiết để  câu chuyện thoát   khỏi lối mòn bi kịch của văn học hiện thực trước cách  mạng viết về  những  nạn nhân đáng thương bị đè bẹp bởi hoàn cảnh.  Nhưng theo sự phát  triển  của tình huống truyện, dẫu kết cục là nỗi tủi  hờn vẫn hàm chứa  trong đó  sức mạnh phản kháng của những con người  từng bước ý thức và  làm chủ hoàn  cảnh, vượt lên số phận. đó cũng chính  là điểm khác biệt về  nhân vật  điển hình trong văn học sau 1945 với  văn học trước đó. 
  Kim Lân đã ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân hậu, đem đến những cảm  nhận   mới mẻ về con người và khơi dậy sức mạnh tình thương giúp con  người  vượt  qua tất cả trở lực của cuộc sống và bản thân họ. Tác phẩm  ấm lòng  ta  bởi niềm tin vào con người tuyệt đối . 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     | 
  
 
 
Powered by: vBulletin v3.8.2
 Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.
 
	
	
		
	
	
 
      |