1.Tác giả & tác phẩm
      
       Uy-li-am Sếch-xpia (1564 - 1616) là nhà soạn kịch Anh nổi tiếng  cuối thời đại Phục hưng ở Tây Âu. Quê ông là thị trấn Xtơ-rét-phớt ôn  Ê-vơn, miền tây nam nước Anh. Cha ông là một thương gia. Sếch-xpia sớm  phải vất vả kiếm sống. Từ một chân giữ ngựa ở rạp hát đến người nhắc vở  rồi diễn viên và cuối cùng trở thành nhà viết kịch nổi tiếng.
       Sếch-xpia để lại 37 vở kịch bao gồm cả ba thể loại : kịch lịch sử  (Vua Hen-ri VI, Vua Giôn,...) ; hài kịch (Chàng thương gia thành  Vơ-ni-dơ, Đêm thứ mười hai,...) ; bi kịch (Rô-mê-ô và Giu-li-ét, Vua  Lia, Hăm-let,...). Ông còn viết truyện thơ và làm thơ.
      
       Tóm tắt vở kịch
      
       Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở bi kịch nổi tiếng gắn liền với tên  tuổi của Sếch-xpia. Ở thành Vê-rô-na nước Ý có hai dòng họ phong kiến  vốn có mối thù truyền kiếp với nhau là Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét. Chàng  Rô-mê-ô là con trai họ Môn-ta-ghiu yêu Giu-li-ét, con gái họ Ca-piu-lét.  Họ là một đôi trai tài gái sắc. Hai người làm lễ thành hôn thầm kín.  Nhưng cùng trong ngày hôm đó, do một cuộc cãi lộn, Rô-mê-ô đâm chết  Ti-bân, anh họ Giu-li-ét và bị kết tội biệt xứ. Gia đình Giu-li-ét ép  nàng phải lấy bá tước Pa-rít. Nàng định tự sát, nhưng được tu sĩ Lâu-rân  giúp kế tránh cuộc hôn nhân đó : tu sĩ cho nàng một liều thuốc ngủ,  uống vào sẽ như người đã chết ; sau khi gia đình đặt thi thể nàng vào  hầm mộ, tu sĩ sẽ báo cho Rô-mê-ô đến cứu nàng trốn khỏi thành Vê-rô-na.  Nhưng người của tu sĩ chưa kịp báo tin thì người nhà Mông-ta-ghiu lại  đến trước báo tin nàng Giu-li-ét đã tự sát. Rô-mê-ô tưởng nàng đã chết,  nên đã tự sát bên nàng. Giu-li-ét tỉnh dậy, cũng tự sát theo. Và trước  cái chết của hai người, hai họ đã quên mối thù truyền kiếp.
      
       Tác phẩm kết thúc bằng cái chết của hai nhân vật chính và sự hoà  giải của hai dòng họ. Một kết thúc đầy bi kịch nhưng âm hưởng chung của  tác phẩm lại thể hiện cái nhìn lạc quan của tác giả đối với sự chiến  thắng của lí tưởng nhân văn chủ nghĩa. Tình yêu say đắm thuỷ chung của  hai người trẻ tuổi đã xoá bỏ những tập tục thành kiến và thù địch của  hai dòng họ suốt hàng trăm năm.
      
       Đoạn trích thuộc lớp 2, hồi II của vở kịch. Rô-mê-ô và Giu-li-ét  gặp nhau và họ đã yêu nhau ngay từ cái nhìn đầu tiên. Rô-mê-ô khi biết  Giu-li-ét là con gái nhà Ca-piu-lét đã nói : “Nàng là người họ  Ca-piu-lét sao ? Ôi oan trái yêu quý, đời sống của ta nằm trong tay  người thù”. Còn Giu-li-ét thì bảo nhũ mẫu : “Nếu chàng có vợ rồi thì có  lẽ nấm mồ kia sẽ là giường cưới của ta”. Và khi biết Rô-mê-ô là con nhà  Môn-ta-ghiu, nàng đã thốt lên :
       Một mối thù sinh một mối tình
       Vội chi sớm gặp, biết đành muộn sao !
       Tình đâu trắc trở gian lao
       Hận thù mà hoá khát khao ân tình.
      
       Những lời này của Giu-li-ét cũng chính là linh cảm cho mối tình  đầy ngang trái của họ. Đêm về cả hai đều không ngủ được. Rô-mê-ô liều  mình trèo vào tường nhà Ca-piu-lét dù biết rằng mình có thể bị giết  chết. Và tình cờ chàng đã nghe được những lời tâm sự của Giu-li-ét. Đoạn  trích là cuộc gặp gỡ của đôi trẻ sau đêm dạ hội ấy.
      
       2/ Phân tích
      
       Uy-li-am Sếch-xpia là tác gia tiêu biểu của nền văn học châu Âu  thời kì Phục hưng. Sống vào giai đoạn quá độ từ chế độ phong kiến sang  chế độ tư bản, ông đã nhanh nhạy nắm bắt được hơi thở, mạch đập của thời  đại và đưa vào tác phẩm của mình. Và sự nghiệp sáng tác của Sếch-xpia  là sự phản ánh và phê phán cả hai chế độ đó. Chế độ tư bản với những  quan hệ “trả tiền ngay” rất tàn nhẫn của giai cấp tư sản buổi ban đầu đã  được khái quát và điển hình hoá ở hình tượng tên lái buôn Do Thái  Sai-lốc trong vở Người lái buôn thành Vơ-ni-dơ và ở số phận vua Lia  trong vở Vua Lia. Sự tàn bạo, lạc hậu, hủ lậu đầy thành kiến của chế độ  phong kiến già nua đã được phơi bày trong một loạt bi kịch của ông như  Mác-bét, Rô-mê-ô và Giu-li-ét, Ô-ten-lô… Sếch-xpia luôn lên tiếng ngợi  ca con người và đòi quyền sống, quyền tự do đích thực cho họ. Nhân vật  của Sếch-xpia là những con người mới của thời đại mới, những con người  luôn sống bằng chính trái tim của mình, dám cất lên tiếng nói thể hiện  khát vọng của mình, vượt lên mọi thù hận, mọi ràng buộc xã hội. Rô-mê-ô  và Giu-li-ét là đại diện tiêu biểu cho những con người ấy.
      
       Trong suốt thời trung cổ, cả châu Âu chìm trong đêm tối của chế  độ phong kiến và nhà thờ. Mọi quyền tự do của con người dường như đều bị  tước bỏ. Tư tưởng nhân văn cao đẹp của nền văn hoá Hi Lạp – La Mã cổ  đại đều bị chìm trong đống đổ nát của những thành tựu văn hoá từng phát  triển rực rỡ. Thời cổ đại người ta ngợi ca con người bao nhiêu thì thời  trung cổ con người bị vùi dập bấy nhiêu. Phong trào văn nghệ Phục hưng  ra đời đã đánh thức khát vọng của con người, đề cao con người và khẳng  định con người là cao quý nhất. Hoàng tử Hăm-lét, nhân vật chính của vở  kịch Hăm-lét, đứa con tinh thần yêu quý của Sếch-xpia, đã có một phát  ngôn bất tử về con người : “Kì diệu thay là con người, về vẻ đẹp nó sánh  ngang với thần thánh, trí tuệ sánh ngang với thượng đế. Con người thật  là kì diệu, là trung tâm của vũ trụ, là kiểu mẫu của muôn loài. Con  người phải được thoả mãn mọi nhu cầu vốn có như ăn, uống, ngủ, nghỉ, các  sinh hoạt trần thế, sự hiểu biết và sự phát triển về mặt trí tuệ”. Phát  ngôn này là sự kế tục tinh thần của Prô-ta-gô-rốt, nhà triết học cổ đại  Hi Lạp : “Con người là thước đo của vạn vật”, là tư tưởng chung của chủ  nghĩa nhân văn trong văn học Hi Lạp cổ đại và cũng chính là tư tưởng  chủ đạo của văn học thời Phục hưng. Là tác giả tiêu biểu của văn học  Phục hưng Anh, Sếch-xpia đã thể hiện sâu sắc tư tưởng này trong tác phẩm  của mình. Sự vĩ đại của Sếch-xpia là sản phẩm của sự kết hợp giữa tài  năng, sự hiếu học, sự phát triển rực rỡ của thời đại Phục hưng và hiện  thực xã hội Anh cuối thế kỉ XVI, đầu thế kỉ XVII. Với sự thắng thế của  tinh thần nhân văn chủ nghĩa, văn học Phục hưng giai đoạn đầu luôn vui  tươi và tràn đầy tinh thần lạc quan. Nhưng đến giai đoạn sau, tinh thần  lạc quan ấy giảm dần bởi sự hiện hữu lạnh lùng của những quan hệ tư sản  mới. Những mâu thuẫn giữa lí tưởng cao đẹp và hiện thực xã hội đầy phức  tạp của buổi giao thời giữa phong kiến và tư bản đã để lại dấu ấn rất  đậm nét trong sáng tác của các nhà văn Phục hưng. Và Sếch-xpia là đại  diện tiêu biểu nhất.
      
       Sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của Sếch-xpia cũng có thể chia làm  hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, trước năm 1600, sáng tác của nhà văn mang  âm hưởng lạc quan, đây là thời kì của những vở hài kịch. Giai đoạn sau,  từ năm 1600 trở đi, chủ yếu ông sáng tác bi kịch. Vở bi kịch Rô-mê-ô và  Giu-li-ét viết khoảng 1594 đến 1595, có thể coi là gạch nối tư tưởng hai  giai đoạn sáng tác của ông. Tuy là một bi kịch tình yêu, kết thúc là  cái chết của hai nhân vật chính nhưng vở bi kịch này không để lại âm  hưởng thê thảm như những vở bi kịch ở giai đoạn sau.
       Rô-mê-ô và Giu-li-ét là một vở kịch thơ xen lẫn văn xuôi vì vậy  dù đã dịch sang văn xuôi nhưng ngôn ngữ đối thoại của nhân vật vẫn là  những câu văn vần rất uyển chuyển, nhịp nhàng tạo cho đoạn trích một sức  hấp dẫn đặc biệt. Dù là độc thoại hay đối thoại, lời thoại của các nhân  vật đều rất giàu chất thơ, có vần điệu.
      
       Sau cuộc gặp gỡ ở buổi dạ hội, cả Rô-mê-ô và Giu-li-ét đều đã  mang trong mình mối sầu tương tư. Và như người ta vẫn nói, khi hai ánh  mắt đã gặp nhau, trái tim đã đồng điệu là lúc hai tâm hồn đã thuộc về  nhau. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là hai người như thế. Vì vậy, họ mới có chung  một cảm xúc và không hò hẹn, họ đã cùng nhau than thở dưới trăng trong  vườn nhà Ca-piu-lét. Những lời độc thoại và đối thoại của đôi trai gái  trong Tình yêu và thù hận đã thể hiện họ là những con người biết yêu  thương bằng chính trái tim mình.
      
       Đoạn trích gồm hai phần. Phần 1 gồm sáu lời thoại đầu. Hai người  tự nói bộc lộ cảm xúc của mình. Chính tình huống kịch này đã làm tăng  tính chất chân thành, say đắm của mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Phần 2  là cuộc đối thoại trực tiếp giữa hai người. Đoạn trích tập trung thể  hiện nội dung chính là : mối thù truyền kiếp giữa hai dòng họ không cản  trở được hai trái tim yêu mà chỉ làm họ say đắm hơn mà thôi. Họ sẵn sàng  vượt lên tất cả để được yêu nhau.
       Rô-mê-ô và Giu-li-ét đại diện cho những con người khao khát tự do  và hạnh phúc. Họ sẵn sàng vượt lên hàng rào ấy để giành lấy tự do, hạnh  phúc cho riêng mình. Họ sẵn sàng từ bỏ tên họ của mình để được đến bên  nhau. Hành động này không phải là sự vô tình của kẻ dám từ chối gia đình  mình, mà đó là sự từ chối những thành kiến vô lí. Giu-li-ét nói :  “chàng hãy thề là chàng yêu em đi, và em sẽ không còn là con cháu nhà  Ca-piu-lét nữa”. Và Rô-mê-ô : “Chỉ cần em gọi tôi là người yêu, tôi sẽ  thay tên đổi họ ; từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa”.  Những lời tha thiết ấy của hai người đã chứng tỏ tình yêu say đắm của  họ. Đó là một mối tình trong sáng và mãnh liệt. Dưới ánh mắt của chàng  Rô-mê-ô đang yêu, Giu-li-ét đẹp và dịu hiền hơn tất cả. Với chàng, “nàng  Giu-li-ét là mặt trời”. Rô-mê-ô đã dùng một loạt hình ảnh so sánh tuyệt  vời nhất để miêu tả vẻ đẹp của nàng Giu-li-ét : “chẳng qua hai ngôi sao  đẹp nhất bầu trời có việc phải đi vắng, đã thiết tha nhờ mắt nàng lấp  lánh, chờ đến lúc sao về”. Lời thoại dài nhất của Rô-mê-ô trong đoạn  trích là lời ca ngợi vẻ đẹp của nàng Giu-li-ét còn lời thoại dài nhất  của Giu-li-ét là đoạn bộc lộ tình yêu say đắm của nàng với Rô-mê-ô.  Chính lời thoại này của Giu-li-ét thể hiện tư tưởng cốt lõi của đoạn  trích : "Mông-ta-ghiu là cái gì nhỉ ? [...] thì mười phân chàng vẫn cứ  vẹn mười.”
      
       Rô-mê-ô vượt tường rào vào vườn nhà Giu-li-ét chỉ vì nhớ nàng  không thể ngủ được. Tình yêu đã làm chàng quên đi rằng vì mối thù truyền  kiếp chàng có thể bị giết chết nếu bị người nhà Ca-piu-lét bắt. Khát  vọng yêu là khát vọng của muôn đời và của mọi dân tộc. Trong văn học  Việt Nam, nàng Kiều dám vượt qua hàng rào lễ giáo phong kiến “Xăm xăm  băng lối vườn khuya một mình” để đến vườn Lãm Thuý thề nguyền cùng chàng  Kim trong một đêm trăng :
       Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
      
       Đinh ninh hai miệng một lời song song.
      
       thì bên khung cửa sổ tràn đầy ánh trăng trong vườn nhà  Ca-piu-lét, Rô-mê-ô và Giu-li-ét vượt qua mối thù địch của hai dòng họ  cũng thề nguyền cùng nhau với những lời tha thiết. Cuộc thề hẹn dưới  trăng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã đánh thức khát vọng sống của cả thời  đại. Tình yêu của họ đã chứng tỏ những thế lực và xiềng xích của những  hủ tục, thành kiến của mối quan hệ phong kiến đã dần mất tác dụng. Nó  đang bị phá bỏ hoặc tự tan rã. Thời đại trung cổ đã qua đi, con người đã  được giải phóng khỏi những quy tắc hà khắc vô lí. Lời của Rô-mê-ô đã  trực tiếp thể hiện điều này, “Tôi vượt được tường này là nhờ đôi cánh  nhẹ nhàng của tình yêu ; mấy bức tường đá ngăn sao được tình yêu ; mà  cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm…”. Cuộc đối thoại giữa  Rô-mê-ô và Giu-li-ét trong đoạn trích đã khẳng định rằng tình yêu có thể  vượt lên tất cả. Và chỉ tình yêu có quyền lên tiếng trong trái tim hai  người đang yêu. Tuy đoạn trích không có những xung đột đầy kịch tính như  các hồi kịch khác nhưng tính kịch vẫn được thể hiện rất rõ qua ngôn ngữ  và hành động kịch, đó là hoàn cảnh đầy bất trắc, là cảm xúc yêu thương  mãnh liệt, là những băn khoăn trước sự trái ngang của tình yêu.
       Với một giọng văn thấm đẫm chất thơ và cảm hứng lãng mạn,  Sếch-xpia đã tạo nên một đêm trăng thề hẹn thật trữ tình. Tình yêu trong  sáng thuần khiết của đôi trẻ đặt bên cạnh mối thù hận truyền kiếp làm  cho mối thù ấy trở nên vô nghĩa và mang đầy tính chất phản nhân văn.  Ngôn ngữ kịch của Sếch-xpia vốn rất giàu nhạc tính và hình ảnh với những  lối ví von so sánh rất gợi cảm, nhất là những câu Rô-mê-ô miêu tả vẻ  đẹp của nàng Giu-li-ét. Mặc dù đã dịch sang văn xuôi nhưng đó vẫn là  những câu văn uyển chuyển, gợi cảm và thấm đẫm chất thơ. Ngôn ngữ đối  thoại giữa Rô-mê-ô và Giu-li-ét tràn đầy tình yêu thương, nó thể hiện sự  đồng điệu tâm hồn của hai người trẻ tuổi. Chỉ một lần gặp nhau với thời  gian ngắn ngủi nhưng dường như họ đã hiểu hết những điều người kia muốn  nói.
      
       Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét tuy gặp nhiều trở ngại nhưng họ  đều đã dũng cảm vượt qua, và đến cái chết cũng không chia lìa được họ.  Cái chết của hai người đã thức tỉnh và hoá giải được mối thù của hai  dòng họ. Tình yêu của họ đã làm được điều mà chính quyền lực của Vương  chủ thành Vê-rô-na cũng không làm được. Mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã  trở thành một huyền thoại tình yêu thật đẹp, là tình yêu lí tưởng cho  toàn nhân loại. Cho đến nay con người vẫn khao khát một tình yêu như  thế.