Phân tích bài thơ Chợ Đồng của Nguyễn Khuyến
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Chợ  đồng
   Tháng chạp hai mươi  bốn chợ Đồng,
 Năm nay chợ họp có  đông không?
 Dở trời, mưa bụi còn  hơi rét
 Nếm rượu tường đền  được mấy ông?
 Hàng quán người về  nghe xáo xác,
 Nợ nần năm hết hỏi  lung tung.
 Dăm ba ngày nữa tin  xuân tới,
 Pháo trúc nhà ăn một  tiếng đùng.
                                      Nguyễn Khuyến
     Hãy phân tích bài thơ “Chợ  Đồng” của Nguyễn Khuyến.
     Bài làm 
     Thi sĩ Xuân Diệu  từng mệnh danh Nguyễn Khuyến là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam, Yên  Đổ, Bình Lục, tỉnh Hà Nam, một vùng đồng chiêm trũng là nơi chôn ray cắt rốn của  Nguyễn Khuyến. Với tuổi đời 75 năm, chỉ có 12 năm đi làm quan, còn lại trên nửa  thế kỷ, ông gắn bó với làng xóm quê hương, với “Vườn Bùi chốn cũ” với núi An  Lão, với chợ Đồng,… thân yêu.
     Nguyễn Khuyến đã  mất non thế kỷ, nhưng thơ ông, trái tim ông vẫn  sống, vẫn gắn bó với cảnh dân, tình dân. Cuộc sống thôn dã bình dị  như thấm vào câu chữ bài thơ “Chợ Đồng” này:
             “Tháng  chạp hai mươi bốn chợ Đồng.
              …
             Pháo  trúc nhà ai một tiếng đùng”.
     Ta đã biết nhiều  tên chợ, phiên chợ trong ca dao, dân ca. “Chợ huyện một tháng sáu phiên - Gặp cô  hàng xén kết duyên Châu - Trần”, “Chợ Viềng năm có một phiên - Cái nón anh đội  cũng tiền anh trao”. Và chợ Đồng quê hương Tam nguyên Yên Đổ.
 Hai câu thơ đầu như  một lời nhẩm tính chợt nhớ ra và hỏi, tự hỏi mình hay hỏi bà con đi chợ  về?
             “Tháng  chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
             Năm nay  chợ họp có đông không?”
     Làng Vị Hạ, quê  hương Nguyễn Khuyến có chợ Và, còn gọi là chợ Đồng, mỗi tháng có 9 phiên họp vào  ngày chẵn: 4, 6, 10, 14, 16, 20, 24, 26, 30. Ba phiên chợ cuối năm, chợ không  họp trong làng nữ, chợ tết nên họp ở cảnh nương mạ, cạnh một đền cổ ba gian.  Những năm được mùa, chợ Đồng, ba phiên tết đông vui lắm. Trái lại, những năm mất  mùa, chợ Đồng thưa thớt người mua bán. Câu thơ thứ nhất nhắc đến một nét đẹp của  quê hương. Tết đã đến, hai mươi bốn tháng chạp chợ Đồng đã vào phiên. Hai tiếng  “năm nay” thời gian không xác đinh. Có phải đó là năm Quý Tị (1893), năm Ất Tị  (1905) đê sông Hồng bị vỡ, vùng Hà Nam bị lụt lớn: “Tị nước Tị này chục lẻ ba -  Thuận dòng nước cũ lại bao la…” (Vịnh lụt). Năm tiếng “chợ họp có đông không?”  như một tiếng thở dài đằng sau câu hỏi nhỏ. Câu thơ chứa đầy tâm trạng; tâm  trạng của một nhà nho gắn bó với bao nỗi vui buồn của nhân dân giữa thời loạn  lạc, đói rét, lầm than.
     Tiếp theo hai  câu 3, 4 trong phần “thực” thêm một câu hỏi nữa, diễn tả nỗi lòng nhà thơ. Ta  như cảm thấy một ông già lụ khụ, tay chống gậy trúc, ngơ ngác nhìn trời, tự  hỏi:
             “Dở trời  mưa bụi còn hơi rét
             Nếm rượu  tường đến được mấy ông?”
     “Dở trời” là  thời tiết không thuận. Mưa bụi, mưa phùn liên miên, đường sá, “ngõ trúc quanh  co” nơi làng quê đi lại bùn lầy, nhớp nháp. Cả một miền quê năm hết tết đến chỉ  “còn hơi rét”. Cái rét từ trong lòng người rét ra. Hơi rét của đất trời cùng với  mùa bụi trắng trời trắng đất như vây chặt lại bà con nơi chốn quê lam lũ. Câu  thơ “Dở trời mưa bụi còn hơi rét” mang hàm nghĩa về cảnh lầm than, nỗi cơ hàn  của nhân dân, của bà con dân cày nghèo khổ, cực nhọc. Chợ Đồng đang họp trong  mưa rét!
     “Ném rượu tường  đền” là một nét đẹp cổ truyền diễn ra trong 3 phiên chợ Đồng cuối năm. Các bô  lão làng Vị Hạ vẫn ngồi tựa lưng vào tường đền “nếm rượu”, xem thứ rượu nào ngon  thì mua để tế lễ thánh trong dịp Tết và đầu xuân. Chỉ một nét đẹp trong phong  tục quê hương vẫn được Nguyễn Khuyến mến yêu và trân trọng. “Được mấy ông?”, có  là bao nữa, thưa thớt, vắng vẻ cả rồi. Câu thứ tư ý tại ngôn ngoại, đã thể hiện  nỗi buồn bơ vơ, cô đơn của một nhà nho bất đắc chí, như ông đã nói trong bài  “Gửi bạn”:
             “Đời  loạn đi về như hạc độc,
             Tuổi già  hình bóng tựa mấy côi”.
     hoặc:
             “Xuân về  ngày loạn càng lơ láo
             Người  gặp khi cùng cũng ngất ngơ”
                                      (Ngày xuân dặn các con)
     Hai câu 3, 4 chỉ  một vài nét đơn sơ, tác giả đã tái hiện khung cảnh, không khí buồn tẻ một phiên  chợ Đồng “năm nay” thưa thớt, vắng vẻ buồn trong mưa rét. Nó có giá trị hiện  thực phản ánh cảnh dân, tình dân trên miền Bắc nước ta một trăm năm về  trước.
     Nguyễn Khuyến có  tài ghi không khí cuộc sống dân dã vào trong những câu thơ của mình. Đây là cảnh  chợ ta, nhà thơ tả những âm thanh, những tiếng đời mà ông “nghe” được:
 “Hàng quán người về  nghe xáo xác,
 Nợ nần năm hết hỏi  lung tung.”
     Có người cho  rằng bài thơ “gợi lên không khí rộn rịp cảnh chợ Đồng” trong hai câu 5, 6 này,  Xuân Diệu đã hiểu ngược lại. Thi sĩ nói: “Người  về”, ở đây không phải là về họp mà là ra về; càng về cuối chơ, có cái  huyên thiên của sự rã đám, kẻ đòi nợ càng thúc người chịu nợ… Cái âm “xáo xác” đối với cái thanh “lung tung”. “Xáo  xạc” nghĩa là ồn ào mà ngơ ngác. Lung  tung là rắc rối, loạn xạ cả lên. Tan chợ, phiên chợ Tết mà chỉ có  tiếng đòi nợ, thúc nợ lung tung!
     Cảnh hàng quán  mua bán “nghe xáo xác”. Cái buồn của sự đói nghèo càng được nhân lên khi năm  hết, tết đến rồi. Hai câu trong phần thực  nói về cái rét, hai câu trong phần luận tả cái nghèo. Có nỗi khổ nào lớn hơn nỗi khổ cơ hàn? Vạn  khôt bất như bần? Dân gian có câu: “Thứ nhất con đói, thứ hai nợ đòi, thứ ba nhà  dột”. Đó là 3 cái khổ của người nghèo xưa nay. Nguyễn Khuyến đã “nghe” được bao nỗi đời cay cực của nhân dân trong  xã hội cũ, nên ông mới viết thấm thía như vậy: “Nợ nần năm hết hỏi lung  tung”.
     Ông đã chỉ ra  cái nguyên cớ của cái nghèo cái rét  ấy:
             “Năm nay  cày cấy vẫn chân thua,
             Chiêm  mất đằng chiêm, mùa mất mùa.
             Phần  thuế quan Tây, phần trả nợ,
             Nửa công  đứa ở, nửa thuê bò.
             Sớm trưa  dưa muốn cho qua bữa,
             Chợ búa  trầu chè chẳng dám mua.
             Tằn tiện  thế mà không khá nhỉ?
             Nhờ trời  rồi cũng mấy gian kho!”
                                                     (Chốn quê)
     Trở lại bài “Chợ  Đồng”, hai câu kết chứa chất bao tâm trạng. Người đi chợ về đã vãn. Một mình nhà  thơ đứng bơ vơ nhẩm tính: “Dăm ba ngày nữa tin xuân tới”, năm cũ dần qua, năm  mới dần sang. Cái rét, cái nghèo vẫn là nỗi lo, nỗi buồn man mác. Chợt nhà thơ  giật mình trước cái âm thanh “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng!”. Tác giả vận  dụng tài tình điển tích về tiếng pháo trúc xua đuổi ma quỷ của Lý Điền ngày xưa  bên Trung Quốc để tại ra một ý mới. Tiếng pháo trúc “nhà ai” nổ “một tiếng  đùng” như muốn xua đi cái nghèo đói của năm cũ để “co cẳng đạp thằng bần ra cửa… giơ tay bồng ông phúc vào  nhà” (Nguyễn Công Trứ). Nguyễn Khuyến đã từng chợt tỉnh khi nghe “cá  đâu đớp động dưới chân bèo”, và giờ đây, trong cảnh “Tháng chạp hai mươi bốn chợ  Đồng” vãn, ông lại bồi hồi ngơ ngác lúc nghe “Pháo trúc nhà ai một tiếng đùng”.  “Nhà ai” - không rõ, mơ hồ, xa xăm. Nỗi cô đơn của nhà thơ không thể nào kể xiết  được!
             “Dăm ba  ngày nữa tin xuân tới, 
 Pháo trúc nhà ai một  tiếng đùng”
     “Tin xuân tới”  với bao nỗi mong chờ cho dân cày mát mặt, “nhờ trời” để dân lạng Vị Hạ “được bát  cơm no”. Nguyễn Khuyến tả cảnh chợ Đồng với bao nỗi buồn, lo, le lói một niềm  mong ước cho dân nghèo khi “tin xuân đến”. Đó là tấm lòng thương dân, lo đời  đáng quý.
     Nguyễn Khuyến  mất năm 1909, đúng 40 năm sau, giặc Pháp kéo quân tới chiếm đóng Vị Hạ, càn quét  bắn phá dã man. Chợ Đồng tan từ đấy, và tục họp chợ Đồng vào cuối năm cũng mất.  Bài thơ “Chợ Đồng” của Nguyễn Khuyến như một tấm  bia nói về cuộc sống và phong tục làng quê xưa. Bài thơ thất ngôn bát  cú cho ta nhiều ấn tượng. Ngôn ngữ bình dị, thuần Nôm. Giọng thơ trầm lặng, đượm  một nỗi buồn man mác, cô đơn. Cảnh dân và tình dân được thể hiện qua một bút  phát điêu luyện. Cái hồn quê xưa như kết đọng qua âm thanh “xáo xác”, qua hình  ảnh “nếm rượu tường đền” của các bô lão tóc bạc phơ dưới làn mưa bụi “Tháng chạp  hai mươi bốn chợ Đồng”… Nguyễn Khuyến vẫn đang hiển hiện cùng làng nước quê  hương. 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     |