Cái ngông của Nguyễn Công Trứ nhìn từ thời nay
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Nói  đến Nguyễn Công Trứ là nói đến hai tư cách: một vị khai quốc công thần  và một nhà thơ. Với tư cách một nhà thơ, ông có công lớn trong việc đưa  lại tiếng nói cho thể ca trù, làm cho nó vốn từ thể loại văn học bình  dân sang thể loại văn chương bác học, góp phần đem lại thêm cho văn học  chữ Nôm một tiếng nói tự khẳng định - đây là đặc điểm của tính tự tôn  dân tộc xét trong cả quá trình của văn học chữ Nôm. Điều đặc biệt ở  Nguyễn Công Trứ là dù xét ông ở tư cách nào, người ta cũng bắt gặp một  điểm chung nhất khái quát, đó là thái độ ngông ngạo với cuộc đời.
 
 “Ngông”  theo cách hiểu thông thường là “tỏ ra bất cần đến sự khen chê của người  đời”(1), có người nói, đó là thái độ khinh đời, ngạo đời dựa trên sự  tài hoa uyên bác hơn đời của mình. Người Trung Hoa hiểu ngông là cuồng,  là loạn. Xét đến cùng, “ngông” là sự khẳng định một cá tính đặc biệt.  Đối với trường hợp Nguyễn Công Trứ, theo chúng tôi, cái “ngông” ấy không  nên hiểu đơn thuần chỉ là cái “ngông” của những nhà nho tài tử, của đám  văn nhân, mà phải hiểu theo góc độ khác, từ nhân sinh quan.
 
 Trước  hết, khi thể hiện mình là “ngông” nghĩa là khi con người sống thật với  mình nhất, thể hiện cá tính riêng biệt không trộn lẫn với người khác, dù  người khác ấy có sự chi phối mạnh mẽ đến bản thân mình. Xã hội phong  kiến là xã hội không cho cá tính phát triển (người có tài trong xã hội  phong kiến là người chỉ được múa một tay – ý của Phan Ngọc), con người  phải tuân theo các phép tắc của cộng đồng, phải hoà mình vào số đông của  tập thể. Đó là một chế độ đặc biệt gia trưởng. Sự phát triển của cá  tính trong xã hội phong kiến là một mầm hoạ. Vì lẽ đó, mọi quy pháp, các  phép tắc ứng xử trong thời phong kiến, suy cho cùng, là để bóp chết cá  tính của con người. Trong xã hội ngột ngạt như thế mà có những tính cách  trỗi dậy thì rõ ràng không thể xem đó là sự ương ngạnh. Hiểu được như  thế để thấy rằng cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ  thực  chất là sự phản ứng xã hội đương thời ở góc độ nhân sinh quan và, sự  phản ứng đó là hết sức táo bạo, thể hiện bản lĩnh của một nhân cách  sống.
 Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ  nhiều  lúc được đẩy lên đỉnh điểm như là sự nổi loạn, chẳng hạn việc ông đi  hát ả đào, ông đeo vào mông con bò một cái mo cau, bảo là che miệng thế  (vì xưa nay miệng thế lắm lời thị phi). Bất chấp những hành động ấy có  thể dẫn đến hậu quả gì, người khác phản ứng ra sao, miễn sao ông được  sống đúng với con người mình là được. Có thể nói rằng, khi đó ông không  hoàn toàn sống với cái lí trí tỉnh táo để chọn lựa, phân biệt mà là ông  hành động theo cái gì đó thôi thúc từ bên trong như là vô thức, như là  tiếng gọi của bản ngã. Nhưng, khi đó là khi con người (không chỉ riêng  Nguyễn Công Trứ) sống thật với mình nhất. Tuy nhiên, cái “ngông” của  Nguyễn Công Trứ khắt khe mà nói, là cái “ngông” chưa thoát khỏi sự ý  thức, sự điều chỉnh của ý thức, nhiều lúc những hành động của ông chỉ  mới dừng lại ở cái muốn, muốn ngạo với đời, nghĩa là có “sự thoả thuận”  giữa ý thức và cá tính. Nói tóm lại, cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ vẫn  chưa thoát khỏi sự khắc kỷ của một nho gia (cùng với sự phải biết thân  phận cá nhân trong xã hội). ý thức khắc kỷ của nho gia và ý thức khẳng  định cá tính mình, làm cho mình là mình hơn (làm rõ bản sắc của mình) rõ  ràng không phải là một. Chính điều này mà cái “ngông” của Nguyễn Công  Trứ chưa trở thành sự đả phá mạnh mẽ, tức trở thành một thế lực, một sức  mạnh. Nhưng dẫu sao chừng đó cũng đủ để nói lên rằng, con người có cá  tính, có ý thức khẳng định mình thì không bao giờ có một thế lực nào  trói buộc họ được.
 
 Trong  xã hội bấy giờ, Nguyễn Công Trứ, để khẳng định mình, không còn con  đường nào khác ngoài con đường văn chương (hiểu theo nghĩa bây giờ).  Trước hết ông tìm đến thể ca trù, một thể loại phù hợp với sự phóng  túng, tự do. ông còn phát biểu trong sáng tác của mình như những tuyên  ngôn xử thế: Khôn khéo dễ hầu bưng khắp miệng/ Khen chê âu cũng gác  ngoài tai. Có thể thấy rõ nhất tất cả những nỗi niềm ấy trong bài Bài ca  ngất ngưởng. Đó có thể xem là một bản khai. Có lẽ cũng không cần phải  tốn giấy mực cho việc chỉ ra và phân tích ở đây, vì lẽ hẳn ai ai mà  chẳng biết đến tác phẩm này không hình thức này cũng hình thức khác.
 
 Ở  Nguyễn Công Trứ, cái khinh bạc của ông đôi khi cũng chùng xuống thành  bi quan (nói chính xác là ẩn đằng sau cái khinh bạc): Đù mẹ nhân tình đã  biết rồi/ Nhạt như nước ốc bạc như vôi. Tuy nhiên ông rất ngạo nghễ:  Mai sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
 
 Trên  cơ sở những gì chỉ ra trên, chúng tôi cho rằng việc Nguyễn Công Trứ xin  được dẫn quân đi chống giặc khi chốn quan trường đã khép lại với ông  (ông đã già) là có hai nguyên nhân chính: thứ nhất, ông là một nhà nho,  quan điểm của nhà nho, của bậc tôi trung là trị nước giúp đời; thứ hai,  việc xung phong như thế cũng là để khẳng định mình, đó có thể xem là sự  dấn thân, nhập cuộc “nhập cuộc, theo nghĩa chủ động là chỉ một hành vi  mà nhờ đó người ta nhập vào một thân phận và ta ở tại đó (…). Để cái  thân tôi thuộc quyền sử dụng ví như quân đội, của người khác”(2)(sự dấn  thân theo nghĩa hiện sinh, còn có một biểu hiện khác, một quan niệm khác  nữa, là chỉ cái thôi thúc bên trong, sự lôi cuốn chủ thể và do đó chủ  thể trở thành bị sai khiến). Trong bài của Vũ Ngọc Khánh có đoạn đã  viết: “nói chuyện xuất thế, ông (Nguyễn Công Trứ) nghĩ ngay đến Khương  Tử Nha, Nghiêm Lăng là trong thâm tâm ông vẫn rắp ranh đóng góp với  đời”(3). Đó là thái độ nhập cuộc, can đảm sống, dưới một hình thức nào  đó cũng là một kiểu để khẳng định : Ai mà chịu rét thì trèo với thông.
 
 Tôi  cho rằng, Nguyễn Công Trứ có sự hoà trộn của nhiều trái ngược (Lưu  Trọng Lư dùng chữ “điều hoà”). ở đó nhiều lúc là sự ổn định, nhiều lúc  là sự bất định. Đó không hẳn là sự vào đời trang nghiêm của Trọng Ni với  sự ra đời hiền vui của Trang Tử. Sự bất định trong con người Nguyễn  Công Trứ như một dấu hiệu của con người hiện đại, con người báo trước sự  tái xuất của mình trong tương lai. (Trên thực tế thì chẳng bao lâu sau  vào thời Nguyễn Công Trứ sống, văn minh kỹ thuật phương Tây đã ồ ạt tràn  vào nước ta - đó là những tín hiệu ban đầu). Cái bi kịch suốt đời của  Nguyễn Công Trứ suy cho cùng là do những tồn tại không thống nhất với  nhau trong ông(4). Trong bản thân ông có nhiều điều bức bách cần giải  thoát, nhưng, xã hội không chấp nhận như vậy, và bản thân ông cũng nhận  ra điều phi lí đó, cho nên, có những lúc Nguyễn Công Trứ tìm đến sự thoả  hiệp, sự tuân thủ (tuân theo quy tắc của cộng đồng). Những bất định,  những trái ngược trong con người Nguyễn Công Trứ, theo chúng tôi, đó là  dấu hiệu của hiện sinh. Bởi hiện sinh cho rằng “sự tồn tại của con người  là dữ liệu duy nhất có thể cảm nhận ngay tức thì, chứ không phải bản  chất”(5), nghĩa là chú trọng cái đang tồn tại đây, rõ nhất là trong  những bối cảnh rối ren, con người thấy nhàm chán trước cuộc dâu bể, chỉ  muốn tìm vào cái bản ngã của mình và hiện sinh theo đúng nghĩa đích  thực, trên thực tế, không phải đợi đến chủ nghĩa hiện sinh ra đời (với  tư cách một trào lưu tư tưởng) mới có. Nghĩa là nó phải được manh nha từ  trước: tư tưởng hiện sinh có trước chủ nghĩa hiện sinh. Phật khi quan  niệm hãy sống hết mình với mỗi sát na của thực tại  là  khi Phật đã hiện sinh rồi. Trịnh Công Sơn – nhạc sĩ tài hoa của chúng  ta - khi nói về sáng tác của mình, về Phật giáo (ông vốn là một “Phật  tử” - lời thú nhận) cũng cho rằng, phật giáo là tôn giáo mang nhiều tính  hiện sinh nhất(6)./.
 
 
 1. Hoàng Phê (c/b), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 1996, tr.667.
 2. Nguyễn Tiến Dũng, Chủ nghĩa hiện sinh: Lịch sử, sự hiện diện ở Việt Nam, NXB Tổng hợp TP HCM, 2006, tr.115.
 3. Nhiều tác giả, Nguyễn Công Trứ, con người, cuộc đời và thơ, NXB HNV, HN, 1996, tr.41.
 4.  Những thăng trầm trong cuộc đời Nguyễn Công Trứ xin xem Mai Hắc ứng,  Đôi điều về Tồn Chất Nguyễn Công Trứ (NXB Thuận Hoá, Huế, 2004) và trong  cuốn Nguyễn Công Trứ, con người, cuộc đời và thơ (sđd) - được biểu diễn  bằng sơ đồ.
 5. Henri Bénac (Nguyễn Thế Công dịch), Dẫn giải ý tưởng văn chương, NXB Giáo dục, HN, 2005, tr.305.
 6.  Vấn đề này xin xem thêm cuốn Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thuỵ Kha, Đoàn Tử  Huyến (sưu tầm và biên soạn), Một cõi Trịnh Công Sơn, (NXB Thuận Hoá,  Huế, 2004, tr.486 – 488).
 Vinh, 28/08/08 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     |