Vẻ đẹp bi tráng của hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
MỞ BÀI
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. ở trong thơ Quang Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian khổ ấy bất tử cùng thời gian
"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc - Quân xanh màu lá dữ oai hùm - Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm - Rải rác biên cương mồ viễn xứ - Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
THÂN BÀI
"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh, những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế QDũng không chỉ dựng lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và QDũng cũng không chỉ khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú, những tình cảm lớn lao là tình quân dân. QDũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước, của dtộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ
"Tây Tiến đoàn quân ..... khúc độc hành"
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu:
" Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi "
hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân thực của QDũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của QDũng là mô tả người lính với những nét khắc khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên. Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2 chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà QDũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi người anh hùng vệ quốc trong câu thơ
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu - Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu - Thể diện sài long xâm lược quân"
Có thể nói QDũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền thống của dtộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng của một hào khí ngút trời Đông á.
Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất đẹp khi QDũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ đô. Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về HNội. Ta bỗng nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở nước - Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam. QuDũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đsống tâm hồn phong phú. Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa.
Bức tượng đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ QDũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu QDũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy mà còn có sức bay bổng.
Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ, lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. QDũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những người đồng đội
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Trong Chinh phụ ngâm:
"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi - Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi - Chinh phu tử sĩ mấy người - Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là nấm mồ của những người con anh dũng
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ QDũng luôn là một sự nâng đỡ nhau của nhiều hình ảnh như vậy.
Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong câu thơ
"áo bào thay chiếu anh về đất"
Bao nhiêu thương yêu của QDũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình. Ai bảo QDũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn" cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
"ở đây không manh ván - Chôn anh bằng tấm chăn - Của đồng bào Cứa Ngàn - Tặng tôi ngày sơ tán"
Chỉ có điều câu thơ của QDũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy QDũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất tráng ca
"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
KẾT BÀI
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, QDũng đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của QDũng đối với những người đồng đội, đối với đất nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.
Bài 2
Hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng “Tây Tiến” một khúc thơ hội tụ hết những cung bậc cảm xúc khác nhau, từ những vui tươi rộn rã cho đến bi tráng hào hùng hay một phút lơ đễnh mông lung. “Tây Tiến” khắc sâu trong lòng người những dư vị khó phai, tựa như những làn ba thu mát dịu vừa khiến lòng người sảng khoái vừa mang đến sự lạnh lẽo tái tê. “Tây Tiến” đó là những nét họa tinh tế, những nốt nhạc trầm vang mà Quang Dũng đã cẩn thận từng chút sáng tạo nên, vẽ đến cái cao nhất, sâu nhất, gảy phím đàn cao vút rồi trầm hùng. “Tây Tiến” đó không phải chỉ là miền cương thổ đầy cát bụi, đấy không chỉ là một nỗi nhớ miên man, mà đấy còn là vẻ đẹp, là tượng đài của con người, của những người lính trẻ trung, của những chàng thi sĩ tài hoa dưới lớp áo xanh rì. Bắt đầu trang thơ cách mạng, mỗi nhà thơ có một phong cách khác nhau, tựa như Chính Hữu đã gợi lên “Đồng chí” của mình bằng hình ảnh miền quê nghèo túng, hay Phạm Tiến Duật với hình ảnh những chiếc xe không kính. Còn với Quang Dũng là gì? Đó không phải là một miền quê mà là một miền đất người đã đi qua, không phải là một lời trần thuật đơn thuần mà là một tiếng gọi. Tiếng gọi thân thương, tiếng gọi nhung nhớ, tiếng gọi đã đưa người lính trở thành một biểu tượng của nỗi nhớ thương: Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi! Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi Khúc tráng ca dần dần được mở ra, trong dư âm của tiếng lòng. “Tây Tiến ơi!” ba tiếng vang lên với tất cả những gì tha thiết nhất, dạt dào nhất mà cũng đớn đau nhất, lẩn khuất vào lòng người và rung lên những xúc cảm tinh tế. “Tây Tiến” đó chỉ đơn thuần là tên một chiến dịch, tên một đơn vị nhưng lại được cất lên như tiếng gọi tới người mình yêu thương. Cách gọi ấy đầy đam mê, cùng nuối tiếc, tiếng gọi như vút dài trong suốt chiều dài của con sông Mã, từ một âm thanh tạo nên một hình ảnh thơ đậm chất tạo hình. Chúng ta luôn nghĩ rằng, những con người của chiến trường, dưới tầng tầng bom đạn, hẳn sẽ vô cùng cứng rắn, nhưng ngay với câu thơ đầu tiên, Quang Dũng đã cho chúng ta thấy sự mềm yếu rất chân thật trong tâm hồn người lính. Chúng ta như nhìn thấy hình ảnh một con người, đứng bên dòng sông, với đôi mắt cuộn sóng đỏ, run rẩy mà thốt lên lời chia biệt mà cũng là lời nhớ nhung. Người lính nghe trong lòng một nỗi “chơi vơi”, một khoảng trống không gì bù đắp được, một con tim đói khát nhưng không thể tìm được nguồn thỏa mãn. Nỗi nhớ sâu đến sắc, nỗi nhớ khôn nguôi, nỗi nhớ tầng tầng giăng mắc khắp núi rừng Tây Bắc. Những hồi ức cứ chốc chốc hiện lên chan hòa trên “đường lên thăm thẳm mùa chia phôi” trong cái “Tây Tiến mùa xuân ấy”. Từng lời thơ trôi nổi, bồng bềnh, hòa lẫn giữa cái bi thương cùng quyết liệt, giữa sự ám ảnh mà vẫn thật mộng mơ, tâm hồn con người hẳn phải rất tinh tế và nhạy cảm, trái tim chiến sĩ không chai sạn như người ta vẫn nghĩ, nó cháy bỏng tình yêu, dạt dào nhung nhớ, tràn đầy những cung bậc cảm xúc khác nhau mà sẽ rung lên mãnh liệt mỗi khi tìm được nguồn cảm hứng. Nỗi nhớ của người lính, đó là nỗi nhớ máu thịt, nỗi nhớ không thể tách rời khỏi thân thể, tựa như là một phần của trái tim, là bản năng vốn có, họ có thể không tiếc thân mình, xông pha chiến tuyến, cười vang trước những gian nan nhưng cũng dễ dàng rơi lệ trong giây phút biệt ly. Những người chiến sĩ cùng nỗi nhớ mà Quang Dũng tạo nên không phải là những gì cao cả, cao quý xa vời, đó không phải một bức tượng uy nghiêm, hùng tráng, đó là sự giản dị và chân thật trong tâm hồn, khiến cho chúng ta tựa như đến gần với những còn người “sống mãi tuổi 20″ kia. Người lính của Quang Dũng không đơn giản chỉ được thể hiện trong những nhung nhớ mông lung, giống như chính ngòi bút của ông kết hợp nhuần nhuyễn giữa lối miêu tả thực tế cùng lãng mạng. Những người chiến cùng chí khí còn được bộc lộ nhiều hơn trong cuộc hành quân của họ. Nhắc đến hai từ “trường chinh” người ta liền nghĩ đến một cái gì đó thật dài dặc, thật gian nan và tràn đầy nguy hiểm. Quả thực là như vậy, những con đường hành quân cực nhọc của người lính Tây Tiến cứ nối tiếp hiện ra, bắt đầu từ một “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” , một chốn “Lam Sơn chướng khí”, nếu như khi nói về sương người ta thường nghĩ đến vẻ đẹp lãng mạng, bồng bềnh như trong Việt Bắc của Tố Hữu có câu: “Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.” Nhưng với Quang Dũng cũng như binh đoàn Tây Tiến thì trái ngược hẳn, sương trước hết đó là những màn sương mù dày đặc “lấp” người, một thử thách thực sự gành cho con người mà chỉ những ai có bản lĩnh thật sự mới dám dương đầu. Nhưng trước hoàn cảnh đó, thái độ của người lính ra sao, thật lạ kỳ, họ không hề sợ hãi, họ dường như coi “sương lấp” kia trở thành những “bản khói cùng sương” thơ mộng vậy, người chiến sĩ đối mặt với gian nguy với một tâm hồn lạc quan đầy sức trẻ, với cái gọi là “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Mới câu thơ trên ta còn bị cảm giác rợn ngợp xâm chiếm nhưng ngay câu thơ sau đã chao đảo trong vẻ đẹp thần kì của đêm núi rừng. “Hoa về” ở đây không đơn giản là những đóa hoa thiên nhiên, không phải dáng hình thiếu nữ, đó là sự thăng hoa trong tâm hồn, là những xúc cảm căng tràn, là ước ao trải nghiệm trước gian nguy. Ngòi bút Quang Dũng không hề che đậy thực tiễn khốc liệt cũng giống như người lính hứng khởi muốn thử sức mình trước những hiểm nguy. Họ đối mặt khó khăn với một niềm say mê, thích thú tới man dại, dường như chính những gian khổ ấy đã khiến cho bọn họ bừng giấc khỏi những mệt mỏi trên đường. Mà còn hơn thế nữa, sương khói kia chỉ mới là khúc dạo đầu cho một bản trường ca bất tận, tất cả thử thách còn đang chờ đợi phía trước mà ấn tượng nhất chính là địa hình núi cao vực sâu đầy hiểm trở của Tây Bắc: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” Từ “dốc” được điệp lại nhiều lần trong câu thơ kết với với những tính từ mạnh như “khúc khuỷu” và “thăm thẳm” đã vẽ nên cả một không giang hùng vĩ và oai linh. Dốc đã lên cao thì sẽ lên cao vút mà đã xuống sâu thì sâu đến vô cùng. Hai tiếng “khúc khuỷu” còn làm cho ta liên tưởng tới một con đường mấp mô không hề bằng phẳng như người Tây Bắc thường có câu “Mỗi bước đi đầu gối chạm cằm” để hình dung về những con dốc cheo leo hiểm trở. Những người lính đã phải vật lộn với những đèo cao và dốc đứng ấy trong suốt quãng đường hành quân qua miền biên cương Tổ quốc. Nhưng đó mới chỉ là những gian khổ ta có thể hình dung, trên thực tế còn có những hiểm nguy mà ta khó lòng tưởng tượng ra nổi. “Heo hút cồn mây súng ngửi trời” Ở đây có một hình tượng rất đặc biệt “cồn mây” không phải “cồn đất” hay “cồn cỏ” mà là “cồn mây”, đây cũng càng không phải một sự tránh lập lại ý thơ, trước có núi đá thì nay có mây trời, đây là một thử thách thật sự của người lính. Có lẽ nhiều người sẽ thấy hình tượng này quá mức lãng mạng, nhưng không, đó cũng chính là một dụng ý của Quang Dũng, nếu như trong cả bài thơ, tác giả đã tinh tế dùng những hình ảnh đối lập giữa hiện thực khó khăn và cảnh sắc mộng mơ, thì ở đây ý thơ hiện thực đã được chia ra giữa hình ảnh thực “dốc núi” và huyễn thực “cồn mây”. Dường như “heo hút cồn mây” kia đã trở thành một thử thách chỉ dành cho người lính, một món quà rất đặc biệt mà Tây Bắc dành tặng những chiến sĩ áo xanh để thử chí nam nhi. Ngoài ra, hình ảnh thơ dường như lạc lõng này còn là sự nhấn mạnh, khiến chúng ta thấy rõ những gian nguy trong quãng đường hành quân của người lính rất đa dạng, nhiều khi là chút khó khăn vụn vặt, nhưng cũng có khi là thử thách khôn cùng. Tuy nhiên, dẫu có khó khăn đến mức nào, gian khổ ra sao thì đoàn binh Tây Tiến vẫn giữ nguyên cho mình một thái độ lạc quan mà còn thêm phần tếu táo khi thốt lên “súng ngửi trời”. Đây là một cách nói đậm chất lính, những chàng bộ đội trẻ lại dùng từ “ngửi”, một giác quan tầm thường để cảm nhận chốn linh thiêng. Điều này cho thấy sự lạc quan cùng hào sảng của người lính trẻ. Họ đứng trước gian khổ nhưng chí không sờn, lòng không nao núng, họ vẫn cười đùa và coi thường mọi thứ dù có khi những lời cười cợt ấy chỉ là một cách để họ quên đi gian nguy. Họ đã coi mình trở thành vẻ đẹp trung tâm của tạo hóa, tiếng cười vang lên để xua đi khó khăn, biến cực nhọc thành thứ tầm thường. Để rồi sau một chặng hành quân dài dặc họ có thể sảng khoái nhìn lại những thành quả mình đạt được: “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” “Ngàn thước”, “ngàn thước” lên cao xuống thấp, đó chính là những chặng đường mà người chiến sĩ đi qua. Họ dường như đã chỉ thẳng vào gian nan mà khảng khái nói rằng, dẫu có bao nhiêu khó khăn gian khổ nữa họ vẫn có thể vượt qua, chắc chắn vượt qua và nhất định sẽ vượt qua. Vóc dáng của người lính bỗng chốc trở nên cao lớn, nó không còn những cái mềm mại của một hồi nhung nhớ, nó không tếu táo như những phút vui đùa, nó nghiêm nghị và oai nghiêm khiến người ta cảm phục. Đối với họ thử thách thực sự không phải là chút sóng lòng sông, không phải ít nhiều trắc trở núi rừng mà phải được đo bằng “ngàn thước”, chỉ những gì là “ngàn thước” mới có thể được coi là thử thách đối với họ. Hiện thực gian khổ là thế nhưng ý chí của người lính vẫn vút cao, sự mạnh mẽ, rắn rỏi như tăng dần lên sau từng thử thách. Họ không vì cực nhọc mà nhụt chí, cực nhọc cho họ thêm chí hướng, cùng sức mạnh để tiếp tục chặng đường bảo vệ nước nhà. Chí khí ngút trời, lòng quân vững chãi, nhưng dẫu nói gì đi nữa hò vẫn là những chàng trai trẻ của đất Hà thành đầy hào hoa và lãng mạng. Suốt một dọc hành quân gian lao, đoàn binh Tây Tiến đã thể hiện con người chiến sĩ của mình, thì đến khi đôi chân đã mỏi, dừng lại chốn bản làng thì tất cả nhưng phong hoa, thi sĩ bị kìm nén bao lâu liền bất chợt tuôn trào: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa Kìa em xiêm áo tự bao giờ? Khèn lên man điệu nàng e ấp Nhạc về viên chăn xây hồn thơ” Cả khung cảnh rực rỡ sắc hoa, lấp lánh ánh sáng, quay cuồng trong những khúc nhạc tưng bừng. Những chàng trai cởi bỏ lớp áo xanh, buông lơi cây súng, trở về với chính con người vốn có của mình. Tất cả như ấm dần lên, tất cả như ngả nghiêng và ngây.
|
|
|
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TIM KIẾM PHÍA TRÊN WEB
ĐÃ CẬP NHẬT HẾT SÁCH GIẢI CÁC MÔN CÁC LỚP VUI LÒNG ĐÁNH TÊN BÀI KÈM LỚP PHÍA TRÊN TÌM KIẾM
|
ADS
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý
truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
|