Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
 
Hãy ủng hộ mua bất kỳ sản phẩm trên shopee.vn truy cập Vào Đây tìm sản phẩm rồi mua, mỗi lượt mua đều giúp duy trì website hoạt động miễn phí
KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY 
 
   	  	 
 
 
		 
	 
 
  
	
	
		
	
	
	| 
		
		 
			
				02-11-2012, 01:56 PM
			
			
			
		 
	 | 
 
	
		
        
        
		
		        
 
                                |   	
                              
				
 				 Đầy Tớ Của Nhân Dân 
	
                 
 Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom 
		
 | 	
	
			
			 | 
	
			
	
                              
					  
					
					
					
				
			 | 
		  |  
		 
		
	 | 
 
	
	
		
	
		
		
			
			
				 
				Phân tích Biển đêm -Huygô
			 
			 
			
		
		
 
 
 
 
 
 
Biển  đêm
 Huygô
   Ôi! Biết bao thuyền  viên, thuyền trưởng
 Buổi ra đi, vui  sướng đường xa
 Cuối chân trời u ám,  đã thành ma!
 Đã biến mất, đớn đau  số phận
 Đêm không trăng,  giữa biển không cùng,
 Chôn vùi thân giữa  sóng muôn trùng!
 Biết bao đã chết rồi  lái bạn
 Cơn cuồng phong cuốn  sạch trong đời
 Ném tan tành trên  mặt nước xa khơi!
 
 Còn ai biết nổi chìm  kiếp ấy
 Mỗi sóng xô vồ cướp  lấy mồi
 Một mảnh thuyền, một  tấm thân trôi!
 Còn ai hay, hỡi  người xấu số
 Giữa mênh mông, thi  thể về đâu
 Trán anh va vào đá  nhô đầu!
 Ôi! Biết bao mẹ cha  hi vọng
 Ngày lại ngày trên  bãi bờ quê
 Ngóng trông ai không  thấy trở về!
 
 Tối đến, trên đống  neo hoen gỉ
 Nhà nhà vui, bên lửa  vây quanh
 Có khi người nhắc  đến tên anh.
 Trong khúc hát,  tiếng cười, câu chuyện,
 Giữa cái hôn của cả  người yêu,
 Lúc anh nằm dưới đáy  xanh rêu!
 
 Người lại hỏi: anh  đâu rồi nhỉ
 Vua đảo nào, hay gặp  chốn giàu sang?
 Rồi chẳng còn ai  nhớ… dần tan
 Thân trong nước, tên  trong trí nhớ…
 Thời gian qua dần  phủ bóng đen
 Trên biển sâu và  lòng lãng quên!
 
 Chẳng ai nhớ dáng  hình anh nữa
 Người người lo  thuyền lưới, đi cày
 Chỉ đêm đêm, giông  bão gào lay
 Những người vợ bơ  phờ mỏi mắt
 Kể về anh, khêu lớp  tro tàn
 Của lòng đau và của  lo than!
 
 Và đến lúc khép rồi  nấm mộ
 Chẳng còn ai biết  nữa tên anh!
 Hòn đá trong nghĩa  địa vắng tanh
 Cả gốc liễu mùa thu  trút lá
 Và cả người hành  khất bên cầu
 Hát điệu buồn ai nhớ  anh đâu!
 Ôi! Đâu hết những  người thủy thủ
 Chìm trong đêm, bi  thảm đời người
 Kinh hoàng bao lòng  mẹ, biển ơi!
 Phải chăng lúc triều  lên sóng vỗ
 Những tiếng người  tuyệt bọng kêu la
 Mỗi chiều về, lại  đến cùng ta!
                                      Tố Hữu dịch
     Phân tích
     Huygô (1802 -  1885) với 60 năm sáng tác đã để lại một sự nghiệp văn chương vô cùng đồ sộ: thơ,  tiểu thuyết, kịch… Cảm hứng nhân đạo dào dạt trong thơ văn của ông. Trước khi  qua đời ba ngày, đi vào cõi vĩnh hằng bất tử, ông còn ghi lại những dòng chữ như  nhắn tin cùng mai hậu: “Yêu thương là hành động!”
     Huygô đã hướng  tình yêu thương về phía những người nghèo khổ, những số phận bất hạnh bi thương  trên cõi đời, khẳng định và ca ngợi những phẩm chất cao quý của họ, đồng thời  căm giận lên án cái ác - nguyên nhân làm cho con người đau khổ.
 Nói đến Huygô là nói  đến những “bình nguyên thơ” của ông với màu xanh trữ tình bất tuyệt trải dài  trên 17 tập thơ với 15 vạn 3 ngàn 873 câu thơ. Những bài thơ như “Biển đêm”,  “Mùa gieo hạt, buổi chiều”, “Tháng năm đầy hoa”, “Bài hát”,… của Huygô đã một  thế kỷ nay được nhiều thế hệ học sinh Việt Nam yêu thích.
     Bài thơ “Biển đêm” rút trong tập thơ “Tia sáng và bóng tối” xuất bản năm 1840 - đó là  tập thơ thứ tư trong vườn thơ ca của Huygô. Nhan đề bài thơ - tiếng Pháp là  “Oceano nox”. Tố Hữu dịch là “Biển đêm”,  một số người khác dịch là “Đêm đại  dương”. Đại dương vốn là một không gian mênh mông, bao la, nơi chứa  đựng bao điều bí mật đới với con người xưa nay, chứa chất bao huyền thoại. Khi  mà khoa học chưa phát triển kì diệu như ngày nay, thì biển và đại dương trong  màn đêm mịt mùng gợi lên trong lòng hàng triệu con người nhiều bí hiểm, huyền  bí… Với nhan đề “Biển đêm”, “Đêm đại dương” thi phẩm đã đem đến cho ta một  trường liên tưởng mênh mông về những bão tố, những vụ đắm tàu kinh hãi… Nhan đề  bài thơ cho ta nhiều xúc động để tiếp cận những vần thơ.
      “Biển đêm” gồm 8 khổ thơ, mỗi  khổ thơ có 6 dòng thơ, mỗi dòng thơ, câu thơ tiếng Pháp có từ 8-12 âm tiết, thể  hiện một bút pháp vô cùng điêu luyện. Hai khổ thơ đầu nói lên số phận bi thảm của thủy thủ sau cơn bão tố. Bốn  khổ thơ tiếp theo: nỗi thương nhớ chờ mong… của  người thân thương đối với những thủy thủ bất hạnh. Hai khổ thơ cuối:  sự quên lãng của thời gian và người đời…  Mạch cảm xúc trữ tình được tuôn chảy theo dòng thời gian, tạo nên sự lắng đọng  ngậm ngùi và tiếc thương, xót xa vô hạn đối với độc giả gần 200 năm  nay.
      1. Cơn cuồng phong cuốn sạch trang đời 
     Mười hai câu thơ  đầu nói lên tai họa trên biển đêm sau cơn bão tố. Bao thuyền viên và thủy thủ  lên đường cho một chuyến đi xa và đi dài. Đó là những con người dũng cảm đáng  yêu. Ngày lên đường với bao niềm vui và hăm hở, trẻ trung và yêu đời.
 “Ôi! Biết bao thuyền  viên, thuyền trưởng
 Buổi ra đi, vui  sướng đường xa”
     Tiếp theo là  những hình ảnh diễn tả thảm họa đối với họ. Một đêm không trăng giữa đại dương  mênh mông mịt mùng, nơi cuối chan trời xa lắc, dưới muôn ngàn lớp sóng cồn họ đã  chết một cách thê thảm. Huygô đã sử dụng bút pháp tương phản giữa 2 câu đầu và  10 câu thơ tiếp theo, tương phản giữa niềm vui ngắn ngủi với thảm họa và cái  chết bi thảm giữa đại dương bao la, vô tận, gợi nên bao xúc động và xót thương  đối với các thuyền viên, thuyền trưởng:
 “Cuối chân trời u  ám, đã thành ma!
 Đã biến mất, đớn đau  số phận
 Đêm không trăng,  giữa biển không cùng,
 Chôn vùi thân giữa  sóng muôn trùng!”
     Thảm họa đến bất  ngờ, họ đã “biến mất”, không một nấm mồ trên cõi nhân gian. Họ đã “vùi thân”  dưới đáy đại dương và muôn trùng con sóng. Mọi cái chết đầu đau thương, nhưng  cái chết đắm tàu trong bão tố của những người đi biển thật vô cùng bi  thảm.
     Cuộc đời những  thuyền viên, thuyền trưởng như một cuốn sách mỏng bị bão tố xé nát từng trang,  ném tơi tả tan tành trên sóng cuộc trùng dương. Con thuyền của họ bị sóng gió  đại dương xô đập, vỡ tan tành. Những con sóng được nhân hóa như đang vồ lấy, cướp lấy “mồi” - những nạn nhân và con tàu  tội nghiệp.
 “Cơn cuồng phong  cuốn sạch trong đời
 Ném tan tành trên  mặt nước xa khơi!
 Còn ai biết nổi chìm  kiếp ấy
 Mỗi sóng xô vồ cướp  lấy mồi
 Một mảnh thuyền, một  tấm thân trôi!”
     Mở đầu bài thơ  là một tiếng kêu thương “Ôi!” (Oh!) và hàng loạt câu cảm thán cùng với điệp ngữ  “biết bao nhiêu” vang lên 4 lần gợi lên ám ảnh không cùng về nỗi xót thương và  sự hãi hùng đối với cái chết đau đớn của các thuyền viên, thuyền trưởng gặp thảm  họa giữa biển đêm. (Combien de marins… Combien capitaines,… combien ont  disparu…, combien de patrons morts,..). Tố Hữu dịch được từ “biết bao nhiêu” hai  lần: “Ôi! Biết bao thuyền viên, thuyền  trưởng… Biết bao đã chết rồi lái  bạn…”
      2. Còn ai hay, hỡi người xấu số…
     Năm tháng dần  trôi qua… Trên các bến cảng, những con tàu khác vẫn ra đi, và những con tàu khác  vẫn trở về cập bến. Nhưng cũng có biết bao cha già, mẹ yếu đợi chờ mỏi mòn những  đứa con đi biển đã lâu ngày chưa trở về. Thật đau thương “Còn ai hay hỡi người  xấu số…”. Dưới đâu các đại dương, thi thể (nắm xương tàn) vẫn bị sóng xô đẩy.  Hai lần bị đau đớn: chết trong hãi hùng, nay “thi thể về đâu” và “trán anh va  vào đá nhô đầu!”. Chết không một nấm mồ! Chết vẫn còn đau đớn:
 “Giữa mênh mông, thi  thể về đâu
 Trán anh va vào đá  nhô đầu!”
     Tưởng tượng là  phẩm chất của thơ. Tưởng tượng càng phong phú bao nhiêu thì cảm xúc càng sâu  lắng bấy nhiêu! Nghĩ về thịt nát xương tan của những thủy thủ, thuyền trưởng xấu  số mà nhà thơ  đau lòng, thương xót. Cha mẹ họ mòn mỏi đời chờ họ trên những  phiến đã bờ đại dương, nay cũng đã chết cả rồi; chết trong sầu muộn, chết trong  già yếu. Khổ ba nói về hai cái chết: chết thảm khốc của kẻ ra đi, và cái chết  lặng lẽ âm thầm của mẹ cha trong sự đợi chờ vô vọng. Còn ai nữa để khóc thương  cho những người đi biển xấu số?
 “Ôi! Biết bao mẹ cha  hi vọng
 Ngày lại ngày trên  bãi bờ quê
 Ngóng trông ai không  thấy trở về!”
     Sự ám ảnh và nỗi  lo âu của mẹ cha già yếu, chết mòn mỏi trong đợ chờ tuyệt vọng - Trong nguyên  tác chưa được lột tả đầy đủ trong bản dịch thơ này.
     Mỗi tối đến, lúc  lên đèn trong những mái nhà êm ấm nơi quê hương, trên những bến bờ xứ sở, cũng  có người nhắc đến tên các anh - những người xấu số đi mãi chưa về. Người thân  thương chỉ còn biết nhớ lại, gợi lại tiếng cưới, câu hát, chuyện phiêu lưu và nụ  hôn thầm lén của người yêu xưa. Kỷ niệm càng chồng chất thì nỗi đau mất mát  người thân yêu càng xót xa thương cảm:
 “Có khi người nhắc  đến tên anh.
 Trong khúc hát,  tiếng cười, câu chuyện,
 Giữa cái hôn của cả  người yêu,
 Lúc anh nằm dưới đáy  xanh rêu!”
     Thương nhớ rồi  hy vọng. Mãi vẫn không thấy anh trở về. Cũng có người thầm nhắc, băn khoăn tự  hỏi: hay các anh (Kẻ đắm tàu đã chết trên đại dương mịt mùng) đã trở thành vua  hải đảo nào, hay đang sống trong cuộc đời giàu sáng mà nhạt tình quê hương? Dòng  chảy thời gian trôi mãi…, trôi mãi. Năm tháng mờ xa dần: “Rồi chẳng ai còn nhớ…  dần tan”. Câu thơ: “Thân trong nước, tên trong trí nhớ” là một câu thơ hay, cảm  động. Hình ảnh cụ thể đặt trong thế sánh đôi: “Thân trong nước” (hình ảnh thể  xác - một nắm xương tan) và “tên trong trí nhớ) (hình ảnh tinh thần). Tất cả đều  rơi vào quên lãng. Các từ ngữ: “trí nhớ”, “thời gian”, “bóng đen”, “biển sâu”,  “lòng lãng quên” được phối hợp trong một chỉnh thể ngôn ngữ để diễn tả nỗi đau  lòng và thương cảm của nhà thơ trước sự khắc nghiệt của thời gian và sự quên  lãng. Chẳng còn thấy ai nhớ đến những người đi biển xấu số. Câu thơ dịch khá  hay:
 Rồi chẳng còn ai  nhớ… dần tan
 Thân trong nước, tên  trong trí nhớ…
 Thời gian qua dần  phủ bóng đen
 Trên biển sâu và  lòng lãng quên!”
     Sự lãng quên của  người đời càng làm cho nỗi đau dồn tụ lại, nén chặt lại trong lòng người vợ góa  - người cô phụ! Đã bao nhiêu đêm dài, bao năm tháng dằng dặc, nàng đợi chờ người  chồng xấu số. Tuổi xuân đã trôi qua. Trong lúc người đời bận rộn với công việc  làm ăn (chài lưới, cày ruộng…) “chẳng ai nhớ dáng hình anh nữa” thì chỉ có người vợ góa đau khổ “bơ phờ mỏi mắt” buồn  tủi, đau xót thương nhớ người chồng thân yêu đi biệt mãi. Mọi kỉ niệm đẹp một  thời bi phủ dưới “lớp tro tàn” của thời gian được người vợ nhắc lại trong nỗi  đau tê tái:
 “Chỉ đêm đêm, giông  bão gào lay
 Những người vợ bơ  phờ mỏi mắt
 Kể về anh, khêu lớp  tro tàn
 Của lòng đau và của  lo than!”
     Hình ảnh “lớp  tro tàn”, “lòng đau”, “lò than” cực tả nỗi đau khôn nguôi trong lòng người cô  phụ. Đau trong nỗi đau cô đơn, chỉ mình nàng biết, chỉ mình nàng hay!
      Trong phần hai của bài thơ  “Biển đêm”, tứ thơ vận động theo quy luật  thời gian và dòng đời. Khổ 3, nói về sự  nhớ thương của cha me… Khổ 4, người thân  yêu nhắc lại những hình ảnh và kỉ niệm về những kẻ viễn du trên những con tàu đi  mãi chưa về. Khổ 5, nói về sự quên lãng  của người đời đối với các anh. Khổ 6 nói  về thương nhớ, đau xót không nguôi của những người vợ goá trong những đêm dài.  Có thể nói tiếng thơ của Huygô đã diễn tả một cách sâu sắc, cảm động nỗi đau  trong 9 tầng sâu của lòng người - những người vợ có chồng đã chết thê thảm trong  bão tố giữa mịt mùng biển đêm.
      3. Phải chăng lúc triều lên sóng vỗ… 
     Hai khổ cuối  diễn tả nỗi lòng nhà thơ đối với những thủy thủ vĩnh viễ vùi xác dưới các đại  dương. Thủ phát nghệ thuật tương phản được vận dụng thần tình để làm nổi bật tấm  lòng nhân đạo bao la của tác giả.
     Sự lãng quên  vĩnh viễn về số phận bi thảm của những người bị đắm tàu là qui luật khắc nghiệt  của thời gian và sự bận rộn của cuộc đời. Sau khi những người vợ góa qua đời thì  cảm thương thay, chẳng còn một ai nhắc đến tên các anh. Hòn đá, cây liễu, người  hành khất và bài hát buồn… nào ai còn nhớ đến anh đâu! Cỏ cây… và lòng người đều  quên lãng. Các thuyền viên, thuyền trưởng đều trở thành cô hồn giữa đại  dương:
 “Hòn đá trong nghĩa  địa vắng tanh
 Cả gốc liễu mùa thu  trút lá
 Và cả người hành  khất bên cầu
 Hát điệu buồn ai nhớ  anh đâu!”
     Rồi nhà thơ xúc  động cất lên lời than. Huygô như đang nhìn vào nơi đây sâu thẳm đại dương mà đau  xót:
 Ôi! Đâu hết những  người thủy thủ
 Chìm trong đêm, bi  thảm đời người”
     Sóng thủy triều  mỗi buổi chiều dâng lên như đang cùng nhà thơ đối thoại và chia sẻ với bao nỗi  thương tâm. Sóng như một chứng nhân về thảm họa một đêm không trăng trên đại  dương thuở nào đang thầm thì với nhà thơ. Chỉ có sóng - tượng trưng cho thiên  nhiên vĩnh hằng, chiều chiều cùng với thủy triều dâng lên như những bài ca bất  tận về những người đã khuất trên biển đêm. Sóng đại dương mãi mãi chia sẻ với  nhà thơ nỗi đau lòng, thương cảm đối với những người bất hạnh vùi thân dưới đáy  đại dương mịt mùng. Sóng đã được nhân hóa, sóng đang cùng nhà thơ cảm thương đau  xót, kể lại nhưng câu chuyện đau lòng cho những người mẹ đang quỳ gối nguyện  cầu.
     Vần thơ mang sắc  điệu trữ tình rung lên như một tiếng lòng nức nở thể hiện đằm thắm, thiết tha  chủ nghĩa nhân đạo bao la của Huygô: 
 “Kinh hoàng bao lòng  mẹ, biển ơi!
 Phải chăng lúc triều  lên sóng vỗ
 Những tiếng người  tuyệt bọng kêu la
 Mỗi chiều về, lại  đến cùng ta!”
     Những người biết  tiếng Pháp chút ít, mỗi lần đọc đến câu thơ cuối bài, rất lấy làm thú vị về âm  điệu, nhạc điệu ngân rung được Huygô diễn tả một cách tinh tế qua các điệp  thanh, các phụ âm “v” dồn dập như những làn sóng biển:
     “Que  vous avez le soir quand vous  venez vers nous!” “Biển  đêm” là  một bài thơ chứa chan tinh thần nhân đạo.
     Cái chết bi thảm  của những thủy thủ trên đại dương để lại bao lỗi đau lòng thương nhớ không nguôi  trong lòng người. Trong dòng chảy của cuộc đời và thời gian, dù họ có bị quên  lãng đi trong lòng người, thì Huygô và ngàn năm sóng vỗ vẫn xót thương không  cùng đối với họ.
     Huygô là nhà thơ  tiêu biểu nhất của chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Lấy “Biển đêm”, lấy màn đêm để lột  tả thiên nhiên bí ẩn, hãi hùng, để diễn tả nỗi đau âm thầm, để nhà thơ chìm sâu  trong suy tưởng để trầm ngâm hoặc đối thoại với lòng mình về nỗi đau nhân thế và  số phận đau thương của con người, về cái  chết và nỗi đau trên cõi đời,  về cái mất và cái còn trong dòng chảy thời gian.
     Không gian nghệ  thuật và thời gian nghệ thuật trong “Biển  đêm” cho ta nhiều ám ảnh về nỗi thương đau. Phải chăng “Biển đêm” trong thơ Huygô cũng là “bể trầm luân”  trong văn học cổ Việt Nam, trong thơ Nguyễn Du? 
 
 |  
  
 
		
		
		
 
  
 | 
 |   
 
    BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free  
 
 
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB 
 
 
		
		
		
			
			
			
			
				 
			
			
			
			
			
			
			
				
			
			
			
		 
	
	 | 
 
 
 
 
	 
	
		
	
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 
	
	
Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN 
© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
 
     | 
  
 
 
Powered by: vBulletin v3.8.2
 Copyright ©2000-2025, Jelsoft Enterprises Ltd.
 
	
	
		
	
	
 
      |