Go Back   ๑๑۩۞۩๑๑...TuThienBao.Com...๑๑۩۞۩๑๑ > VI - ♥ Không Gian IT ♥ > 27 - Ebook Tổng Hợp - SÁCH GIẢI FULL > Khoa Học Xã Hội


Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
$$**=====DS Truyện Tranh Online=====**$$ $$**=====Truyện Tranh Mới Đang Update=====**$$

KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY


Trả lời
  #1  
24-08-2012, 10:50 PM
adminbao adminbao is offline
Đầy Tớ Của Nhân Dân
Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom

Default Phân tích bài thơ "Vội vàng" của Xuân Diệu




Bài 1:
Ngay từ buổi đầu bước chân vào làng thơ, Xuân Diệu dường như đã tự chọn cho mình một lẽ sống: sống để yêu và tôn thờ Tình yêu! Phụng sự bằng trái tim yêu nồng cháy, bằng cuộc sống say mê và bằng việc "hăm hở" làm thơ tình! Nhắc đến Xuân Diệu, sẽ thật là thiếu sót nếu không kể tên "Vội vàng", "Đây mùa thu tới", và "Thơ duyên" trong tuyển tập "Thơ thơ" - đứa con đầu lòng mà "ông hoàng thơ tình" đã ban tặng cho nhân gian. Như một cái chạm tay khẽ nhẹ vào tâm hồn những người yêu thơ, thơ Xuân Diệu nhẹ nhàng và tinh tế như chính tác giả của nó, để lại trong tâm hồn người đọc một ấn tượng đậm nết và thật khó phôi pha về sự phóng túng, giàu có mà hết sức tinh tế trong đời sống nội tâm, tâm của hồn của cái "TÔI" trữ tình Xuân Diệu. Thơ Xuân Diệu như một khúc tình si say đắm ngọt ngào...thật đến từng hơi thở!

Những vẻ đẹp của mùa xuân đâu chỉ của riêng Xuân Diệu. Từ nghìn năm tước, các bậc tiền bối đã có những vần thơ tràn trề về tình yêu đói với mùa xuân và cuộc sống. Nhưng yêu đến mức có những ham muốn táo bạo và khác thường như Xuân Diệu, đó là điều thật mới mẻ, thật mãnh liệt. Đặc biệt là cái cách nói của nhà thơ. Trong thơ ca trung đại, nét nổi bật là tính phi ngã, cái tôi trữ tình thường ẩn náu sau những hình tượng thiên nhiên. Trong khi đó, Xuân Diệu bộc lộ ý thức về cái tôi trữ tình thật táo bạo:

"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi."

Nói Xuân Diệu là một nhà thơ mới, quả không sai! Nếu như trong thơ ca của những thi sĩ lãng mạn ngày xưa, thiên đường là chốn bồng lai tiên cảnh, là nơi mây gió trăng hoa, thì trong quan niệm thơ của Xuân Diệu, cuộc sống trần gian mới thực là nơi hạnh phúc nhất, là nơi xinh đẹp và căng mọng nhựa sống nhất! Thơ lãng mạn của ông luôn có một niềm say mê ngoại giới, khác giới, một niềm khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống mãnh liệt đến tràn đầy. Dường như lòng yêu đời, yêu cuộc sống của ông đã biến cái ham muốn "tắt nắng", "buộc gió" trở nên quá táo bạo, đến độ lo âu trước sự thay đổi của đất trời, cảnh vật...muốn ôm tất cả, muốn giữ lại tất cả thiên nhiên với vẻ đẹp vốn có của nó. Ước muốn níu giữ thời gian, chặn vòng quay của vũ trụ,đảo ngược quy luật tự nhiên, phải chăng là ông đang muốn đoạt quyền tạo hóa. Nhưng trong cái phi lí đó, vẫn có sự đáng yêu của một tâm hồn lãng mạn yêu cuộc sống. Với ông, sống là cả một hạnh phúc lớn lao, kỳ diệu, sống là để tận hưởng và tận hiến. Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận như một thiên đường trên mặt đất, một bữa tiệc lớn của trần gian. Nhà thơ đã cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muốn, nên sự sống cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường sắc hương đó hiện ra trong "Vột vàng" vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đương lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khêu gợi.
Có ai đó đã nói rằng: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mây trời thanh sắc”:

"Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si."

Đó là niềm vui sướng của trái tim thi sĩ trẻ lần đầu tiên phát hiện ra 1 thiên dường trên mặt đất.Nếu thơ xưa, các nhà thơ chỉ sử dung thính giác và thị giác để cảm nhận vẻ đẹp của ngoại giới thì các thi sĩ thời Thơ mới lại huy động tất cả các giác quan từ nhiều góc độ để cảm nhân vẻ đẹp và sự quyến rũ đắm say hồn người của cảnh vật và đất trời lúc xuân sang. Trong đoạn thơ, điệp ngữ "này đây" được sử dụng 5 lần kết hợp với lối kiệt kê khiến nhịp thơ trở nên dồn dập, là một sự chỉ trỏ ngơ ngác, ngạc nhiên, lạ lẫm, như một tiếng reo vui sướng tột cùng để rồi chìm ngập đắm say trước trùng trùng điệp: Của ong bướm tuần tháng “mật” ngọt ngào, nào là hoa của đồng nội xanh “rì”, nào là lá của cành tơ “phơ phất”, của yến anh là khúc tình “si”; thể hiện sự phong phú bất tận của thiên nhiên. Tất cả mọi giác quan của thi sĩ như rung lên, căng ra mà đón nhận tất cả, cảm nhận tất cả. Sự sống ngồn ngột đang phơi bày, thiên nhiên hữu tình xinh đẹp thật đáng yêu như một sự gợi mở hấp dẫn đến lạ kì, một sự mời mọc mà thiên nhiên là những "món ăn" có sẵn. Những vẻ đẹp được liệt kê bằng những tính từ đậm nhạt khác nhau để thể hiện tài năng sử dụng từ ngữ của Xuân Diệu - cảnh vật trong thơ ông đã trở nên cuộn trào sắc màu, cuộn trào sức sống. Sự vật bình thường ở ngoài đời cũng được đặt cho một dáng vẻ rất kiêu, rất hãnh diện, được trực tiếp nhận ánh sáng rực rỡ của lòng yêu cuộc sống từ hồn thơ Xuân Diệu đã trở nên lung linh, đẹp đẽ, là biểu tượng của mùa xuân và tuổi trẻ ở giữa cuộc đời! Thi pháp hiện đại đã chắp cánh cho những cảm giác mới mẻ của Xuân Diệu, giúp nhà thơ diễn tả trạng thái hồn nhiên, bồng bột trước cái sắc xuân trong cảnh vật, trong đất trời và của muôn loài. Cách ngắt nhịp trong đoạn thơ đầy linh hoạt, biến hoá (3/2/3 và 3/5). Đặc biệt là những hình ảnh, những khung cảnh được miêu tả thật cụ thể, in đậm phong cách XD: tuần tháng mật, đồng nội xanh rì ... tất cả tràn trề sự sống và thật đắm say!

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân."

Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam hình ảnh mặt trời - vầng thái dương lại hiện ra dịu dàng, tình tứ và lãng mạn đến thế. Với Xuân Diệu, mỗi ngày được sống, được nhìn thấy mặt trời, được tận hưởng sắc hương của vạn vật là một ngày vui. Hình ảnh "thần vui hằng gõ cửa" gợi những liên tưởng gần gũi với hình tượng mặt trời trong thần thoại hy lạp xưa. Niềm vui sướng trong tâm hồn nhà thơ dâng tràn khiến ngòi bút của Xuân Diệu thật sự xuất thần và thi sĩ đã sáng tạo nên 1 câu thơ tuyệt bút:"Tháng giêng ngon như một cặp môi gần". Một chữ “ngon” chuyển đổi cảm giác thần tình, một cách so sánh vừa lạ vừa táo bạo. Đây là câu thơ hay nhất, mới nhất cho thấy màu sắc cảm giác và tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt của thi sĩ Xuân Diệu. Nhà thơ đem lại một khái niệm vốn trừu tượng thuộc về thời gian "tháng giêng" so sánh với một hình ảnh vốn cụ thể, mang tính nhục cảm. Nhưng sao câu thơ Xuân Diệu vẫn tinh khôi, vẹn nguyên, trong sáng, lại gần gũi và trẻ trung đến thế. Cái mới trong thơ tình Xuân Diệu là thế! Đó là sư kết hợp hài hoà giữa tâm hồn và thể xác khiến tình yêu thăng hoa. Đang ở đỉnh điểm của hạnh phúc, tâm hồn nhà thơ trỗi lên nỗi âu lo trước cái mong manh của xuân sắc sẽ phai tàn, sự đan xen hai luồng cảm xúc trái ngược là điều thường gặp trong thơ tình Xuân Diệu. Nó dẫn nhà thơ đến những suy tư và quan niệm nhân sinh mang tính triết lý. Thi nhân nhận ra cái quy luật khắc nghiệt của dòng chảy thời gian: "tất cả sẽ qua đi, tất cả sẽ lụi tàn ..." Hai tâm trạng trái ngược nhưng dồn nén trong dòng thơ "Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa". Về hình thức, đây là một cấu trúc độc đáo bởi nó ngắt thành 2 câu chứa đựng 2 tâm trạng, 2 cảm xúc trái ngược nhau: sung sướng-vội vàng. Nhưng điều mà Xuân Diệu muốn diễn tả là "vội vàng một nửa". Thường thì con người ở tuổi trung niên mới tiếc tuổi xuân. Ở đây Xuân Diệu đang xuân, đang quá đỗi trẻ trung mà đã nuối tiếc, đã vội càng "Tôi không chờ nắng hạ mới hòai xuân." Vì sao vậy? Bởi với Xuân Diệu:

"Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua.
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hòan,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa.
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,"

Nhưng quan niệm của Xuân Diệu vừa phi lí, vừa hợp lí, vừa quen lại vừa lạ. Quen vì người xưa đã từng thở dài "xuất thì bất tái lai". Và là bởi đó là tiếng nói của một cái tôi ham sống, coi mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu là tất cả sự sống của mình. Biết rằng mùa xuân của đất trời vẫn tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại, thi sĩ bâng khuâng, tiếc nuối ... Mối tương giao mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như cũng mang theo nỗi buồn “chia phôi”, hoặc “tiễn biệt”, phải “hờn” vì xa cách, phải “sợ” vì “độ phai tàn sắp sửa”. Cũng là “gió”, là “chim”… nhưng gió khẽ “thì thào” vì “hờn”, còn “chim” thì bỗng ngừng hót, ngừng reo vì “sợ”! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng là để làm nổi bật cái nghịch lý giữa mùa xuân – tuổi trẻ và thời gian: "Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?" Con người hiện đại sống với quan niệm thời gian tuyến tính, thời gian như một dòng chảy mà mỗi mộy khoảnh khắc qua là mất đi vĩng viễn... Trái tim Xuân Diệu đa cảm quá và tâm hồn nhà thơ quá đỗi tinh tế trước bước đi của thời gian. Con người ấy lúc nào cũng "chẳng bao giờ nữa..." Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hoá làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn khoăn vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khuâng:
Trong đoạn thơ này, cái giọng điệu sôi nổi, bồng bột, đắm say của Xuân Diệu thời "thơ thơ" thể hiện đầy đủ nhất. Những câu thơ chứa đựng cả giọng nói háo hức và nhịp đập của một con tim vồ vập muốn sống hết mình. Con tim ấy của một cái tôi trữ tình từng bộc bạch một cách chân thành. "Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ - mà vạn vật là muôn đá nam châm." Từng làn sóng ngôn từ lúc đan chéo nhau, lúc lại song song thành những đợt sóng ào ạt vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. So với đoạn thơ trên, cách tự xưng của nhân vật trữ tình thay đổi. Phần đầu bài thơ, thi sĩ xưng "tôi" - cái tôi đơn lẻ đang đối thoại với đồng loại. Đến đây, thi sĩ xưng ta một cách đầy tự tin nhưng đã có thêm rất nhiều đồng minh cùng đứng lên đối diện với sự sống:"Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa. -
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,"


"Ta muốn ôm.
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!"

Hình thức trình bày đoạn thơ rất đặc biệt, thể hiện dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ba chữ "Ta muốn ôm" được đặt ở giữa dòng thơ mô phỏng hình ảnh nhân vật trữ tình đang dang rộng vòng tay để ôm tất cả sự sống lúc xuân thì - sự sống giữa thời tươi vào lòng. Đó là chân dung của một cái tôi đầy tham lam, ham hố đang dứng giữa trần gian, cuộc đời, dòng đời để ôm cho hết, riết cho chặt, cho say, cho chếnh choáng, thâu cho đã đầy, cho no nê, cho tới tận cùng những hương sắc của đất trời giữa mùa xuân... Tất thảy đều vồ vập, khát khao đến cháy bỏng với các mong muốn được giao hoà, giao cảm mãnh liệt với vạn vật, với cuộc đời. Đây quả là một khát khao vô biên, tuyệt đích, rất tiêu biểu cho cảm xúc thơ Xuân Diệu. Điệp từ, điệp ngữ được sử dụng bới tần số dày đặc trong cả đoạn thơ tiêu biểu cho nhịp điệu dồn dập, đầy bồng bột, đắm say. Chính những câu thơ đó lưu lại trong ta ấn tượng về một dòng sông cảm xúc cứ dâng trào, ào ạt từ câu mở đầu cho đến câu cuối cùng bài thơ. Chỉ riêng điệp ngữ ta muốn được điệp tới bốn lần, mỗi lần điệp đi điệp lại liền với một động từ diễn tả một trạng trái yêu thương mỗi lúc một nồng nàn, say đắm: ôm, riết, say, thâu. Đó chính là đỉnh điểm của cảm xúc bồng bột, sôi nổi và đắm say khiến nhà thơ phá tung những quan niệm của thi pháp trung đại để biểu lộ tâm hồn mình trong một cách nói tưởng như vô nghĩa mà hoá ra rất sáng tạo "Và non nước, và cây, và cỏ rạng." Một trạng thái tham lam, ham hố kô có điểm tận cùng trong tâm hồn nhà thơ. Tròn cảm nhận của thi nhân, cuộc đời trần thế như bày ra cả một bàn tiệc với tất cả hình ảnh của cuộc sống tươi non, đầy hương sắc. Nhà thơ diễn tả thiên nhiên bằng các mĩ từ, lại nhân hoá khiến nó hiện ra như con người có hình hài và mang dang dấp của tuổi xuân. Câu cuối cùng kết thúc cả bài thơ:" Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi." Đây là lời gọi thiết tha với sự cuồng nhiệt cao độ của 1 trái tim khao khát tình yêu và cuộc sống. Trong hồn thơ Xuân Diệu, mùa xuân - tuổi xuân ngon lành và quyến rũ như một trái chín ửng hồng, như mời mọc. Trong câu thơ này, hình ảnh xuân hồng với từ "cắn" khiến câu thơ thật gợi cảm xen chút giật mình trước tứ thơ thật độc đáo, diễn tả niềm khao khát giao cảm mãnh liệt, sự ham hố cuồng nhiệt của Xuân Diệu mãi mãi là khát vọng, là ham muốn không có giới hạn.

Với bài thơ "Vội vàng", Xuân Diệu đã phả vào nền thi ca Việt Nam một trào lưu "Thơ mới". Mới lạ nhưng táo bạo, độc dáo ở giọng điệu và cách dùng từ, ngắt nhịp, nhất là cách cảm nhận cuọc sống bằng tất cả các giác quan, với một trái tim chan chứa tình yêu. "Vội vàng" đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật rất đẹp, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Đó là lòng yêu con người, yêu cuộc đời. Đó là tình yêu cảnh vật, yêu mùa xuân và tuổi trẻ... Và là ham muốn mãnh liệt muốn nĩu giữ thời gian, muốn tận hưởng vị ngọt ngào của cảnh sắc đất trời "tươi non mơn mởn". Phải chăng trời đất sinh ra thi sĩ Xuân Diệu trên xứ sở hữu tình này, là để ca hát về tình yêu, để nhảy múa trong những điệu nhạc tình si?! Thơ Xuân Diệu - vội vã với nhịp đập của thời gian.

Bài 2:






Nhắc đến Xuân Diệu, không thể không nhắc tới Vội vàng. Một trong những bài thơ đầu tay trong sự nghiệp của nhà thi sĩ và được Thế Lữ đáng giá là bông hoa đầu mùa mà nhà thi sĩ ấy tặng cho nhân gian.

Trong bầu trời Văn học, Xuân Diệu là một ngôi sao sáng lấp lánh trong hàng vạn các vì sao. Thu hẹp lại trong vũ trụ của thi ca, đặc biệt là thi ca hiện đại Việt Nam thì càng cần phải nói đến nhà thơ như một anh hùng mang sứ mệnh đổi mới. Những sáng tác của thi sĩ ra đời trong những năm ba mươi của thế kỉ trước, khi xa hội Việt Nam trải qua một cơn giông tố cả về đời sống chính trị và văn hóa xã hội. Những tư tưởng phóng khoáng phương Tây đã thâm nhập vào hồn ta, hơn cả là ở những nhà thi sĩ, những tâm hồn nhạy cảm đang bơ vơ lạc lõng tìm kiếm lẽ sống giữa buổi gian nan. Những vần thơ khuôn phép của mấy mươi thế kỉ trước đã đi vào dĩ vãng, trả lại diễn đàn cho những vần thơ táo bạo và mới mẻ, đề cao cái tôi cá nhân, quan tâm đến đời sống của con người nhiều hơn thay vì những quan niệm về thiên mệnh của xã hội phong kiến phương Đông. Xuân Diệu cũng là một trong số những nhà thơ sớm được tiếp thu tinh hoa ấy. Những vần thơ của nhà thơ thể hiện một tâm hồn băn khoăn, rạo rực; một trái tim yêu đời và yêu sống, yêu đến đắm say, nồng nàn nhưng cũng đầy suy tư, triết lí. Điều đó được thể hiên rất rõ trong Vội vàng.

Bài thơ được in trong tập Thơ thơ xuất bản năm 1938, khi quá trình hiện đại hóa thơ ca nói riêng và văn học nói chung đạt những thành tựu rực rỡ. Khi ấy, Xuân Diệu mới chỉ là một chàng trai hai mươi hai tuổi. Vội vàng được viết nên bởi một tâm hồn trẻ tuổi , trẻ lòng, bởi vậy mà nhà thi sĩ đã từng chia sẻ: “ Đây là lòng tôi đương thời sôi nổi. Đất là hồn tôi vừa lúc ngân vang. Và đây là cả cuộc đời tôi nữa… Tôi dành bài thơ tặng các bạn trẻ tuổi trẻ lòng.”

Mở đầu bài thơ là những khát khao mà chủ thể trữ tình “tôi” trực tiếp bày tỏ:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”


Chủ thể trữ tình hay chính là nhà thơ có mong muốn được “ tắt nắng đi” và “ buộc gió lại”. “Tắt” và “buộc” là những động từ chỉ hoạt động thường đi kèm với những vật thể có hình dạng, hình khối mà ta có thể cầm, nắm được như : tắt đèn, buộc dây,… Nhưng trong khổ thơ này, Xuân Diệu lại dùng “tắt” và “buộc” với những hiện tượng của tự nhiên là nắng và gió. Đó là những thứ ta chỉ có thể cảm nhận bằng xúc giác thông qua cảm giác chứ không thể cầm, nắm được. Và quan trọng hơn cả là nhà thơ muốn “tắt nắng đi” và “ buộc gió lại” là để cho “ màu đừng nhạt mất” và “hương đừng bay đi”, tức là níu giữ lại những vẻ đẹp của cuộc đời là những màu sắc rực rỡ và hương thơm của đất trời hoa cỏ. Câu trần thuật trực tiếp thể hiện mong muốn của nhà thơ “ tôi muốn…” rất rõ ràng và ngắn gọn, Xuân Diệu bày tỏ khát khao ước vọng của lòng mình một cách giản dị nhất, chân thành nhất nhưng cũng cháy bỏng và mãnh liệt nhất. Thể thơ năm chữ, câu thơ ngắn, nhịp thơ nhanh kết hợp với điệp cấu trúc : “ Tôi muốn…/ Cho…” cũng như lối diễn đạt cụ thể, trực tiếp rất mới rất Tây đã thể hiện một khát khao mãnh liệt và táo bạo của nhà thi sĩ, muốn đoạt cả qui luật của vũ trụ, muốn điều khiển cả những hiện tượng thiên nhiên. Nếu như ta đã từng thấy trong thơ cổ những khát vọng trí quan, trạch dân, giúp nước cứu đời, những khát vọng kinh bang tế thế :
“ Trí chủ hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.”
( Cảm hoài – Đặng Dung)


Thì nay, trong thơ Xuân Diệu, ta lại thấy một khát vọng thật bay bổng, là cái khát vọng của nghệ sĩ. Khát khao níu giữ lại cái thanh sắc của thời tươi, vẻ đẹp của trần thế. Là cái xua tay chối từ một cuộc sống nhạt nhẽo, mọi thứ đều lưng chừng lỡ cỡ tục như một cái “ ao đời phẳng lặng”. Hay cũng chính là khát khao muốn níu giữ lại thời gian chảy trôi bất biến không ngừng. Phải là một người yêu đời, yêu sống, yêu cái đẹp thắm hương đượm sắc biết mấy, nhà thi sĩ mới có thể viết nên những vần thơ đầy rạo rực và cháy bỏng đến thế!

Nếu như bốn câu thơ đầu là những khát vọng níu giữ cái đẹp của nhà thơ thì tám câu thơ tiếp theo là một “ khúc nhạc thơm” thể hiện niềm sung sướng, say mê trước cái đẹp của thiên nhiên mùa xuân như một thiên đường trên mặt đất. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân hiện lên với muôn vàn những sắc màu tươi mới, rực rỡ. Nào là ong bướm, nào là hoa, là đồng nội xanh rì, là những lá và cành tơ phơ phất, là chim yến chim oanh với những “ khúc tình si”. Hiện lên theo những vần thơ là khung cảnh thiên nhiên mùa xuân vô cùng tươi đẹp, nô nức và rộn ràng sự sống. Đó giống như bức tranh về một khu vườn mùa xuân ngập tràn ánh sáng, niềm vui, tràn đầy màu sắc, sức sống mơn mởn, non tơ, ngọt ngào trong vị và ngạt ngào trong hương . Một thiên nhiên sáng trong và tràn đầy sức sống. Thể thơ tám chữ làm cho câu thơ được nới rộng, mở ra một không gian bao la thấm đượm xuân sắc, xuân tình. Điệp từ “ này đây” kết hợp với phép liệt kê tạo nên một giọng thơ sôi nổi, thiết tha, tràn đầy niềm say mê của một người trẻ tuổi, trẻ lòng; nhịp thơ nhanh, gấp gáp, hơi thơ liền mạch,.. Tất cả đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân đầy đắm say, quyến rũ được nhìn qua cặp mắt” xanh non và rờn biếc” của chàng trai trẻ lần đầu tiên phát hiện ra thế giới này. Bên cạnh đó, hình ảnh thơ đẹp, sóng đôi theo phép tu từ ẩn dụ: ong bướm- tuần tháng mật; hoa- đồng nội xanh rì; lá- cành tơ; yến anh- khúc tình si; ánh sáng-thần Vui;… còn tạc nên một lớp nghĩa bóng bẩy cho toàn đoạn. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân hiện lên với những ngọt ngào và si mê hay cũng còn có thể hiểu là cái ngọt ngào, hạnh phúc của lứa đôi, là niềm si mê, say đắm của đôi lức trong hạnh phúc. Hay là cái thuần khiết, non tơ, thanh tân, trẻ trung như hoa đồng nội; là cái trong trẻo, tinh khôi, tinh nguyên, dịu dàng và rất đỗi tươi mới như là ánh sáng mùa xuân. Có thể thấy thi sĩ Xuân Diệu của ta đã “ thức nhọn các giác quan”, cảm nhận bằng cả cảm giác và cảm xúc để mở hồn mình ra, đón lấy những điều đẹp đẽ, tươi mới ở đời. Dù là bức tranh thiên nhiên ngập tràn ánh sáng và sự sống, hay là vườn đời ngập tràn xuân sắc, rạo rực xuân tình ; qua những vần thơ ráo riết, dồn dập, người đọc có thể cảm nhận được tình yêu tha thiết, si mê của nhà thơ dành cho cuộc đời hệt như tình yêu của tình nhân dành cho tình nhân trong tình ái mà trong đó, hình tượng trung tâm là người thiếu nữa mắt trong, môi thắm:
“Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”


Hình ảnh so sánh hết sức độc đáo” tháng giêng” với “ cặp môi gần”. Đó là cặp môi tươi thắm , căng mọng thanh xuân của cô thiếu nữ, một đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp tràn đầy sức sống. Nói “ tháng giêng ngon như một cặp môi gần” , tức là khẳng định và nhấn mạnh cái đẹp khiến người khác đắm say của thiên nhiên mùa xuân; đồng thời thể hiện tình yêu si mê sâu sắc của nhà thi sĩ đối với cuộc đời.

Bức tranh khu vườn mùa xuân hiện lên đẹp đẽ, lung linh như một thiên đường trên mặt đất. Ở ngay đây, trên trần gian này, chứ không phải ở một cõi xa xôi xa thẳm nào khác. Ta đã từng đi qua hơn mười thế kỉ với những vần thơ thấm đượm những nỗi buồn thiên cổ:
“ Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.”
( Truyên Kiều- Nguyễn Du)


Thơ của cổ nhân thường mang những nỗi sầu, một nổi sầu ăn sâu bám rể trong lòng những tâm hồn nghệ sĩ nặng lòng với cuộc đời thế sự, nặng lòng với nhân dân, đất nước. Hay trong chính thời đại mà Xuân Diệu sống và sáng tác, Thế Lữ vẫn mải mê đi tìm cái đẹp ở một chốn xa xôi, vẫn luôn cho rằng mình là người du khách đi du ngoạn trần gian và sớm muộn cũng sẽ trở về quê hương của mình là chốn Bồng lai Tiên cảnh; Chế Lan Viên vẫn đau đáu giấu mình trong tinh cầu giá lạnh với những kí ức về một Chiêm Thành đẹp đẽ đã lùi về quá khứ xa xôi; còn nhà thơ chân quê Nguyễn Bính luôn sống trong hoài niệm về những vẻ đẹp của quê hương, dân tộc ở những “ thời ấy”. “ thuở xưa”. Xuân Diệu không như thế. Ông quan niệm cuộc đời đẹp ngay ở khoảnh khắc này, ngay trên mảnh đất này, chính ở thực tại chứ không phải là chốn thiên đường hay là trong quá khứ hay sẽ ở trong tương lai. Cuộc đời đẹp ngay giữa thực tại nó vốn có. Bởi thế, nhận xét về Xuân Diệu, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã khẳng định Xuân Diệu là người “ xây lầu thơ ngay trên hồng trần; đốt cảnh bồng lai xua ai nấy về hạ giới.” Với Xuân Diệu, cuộc sống giống như một thiên đường. Chính cái nhìn lạc quan, mới lạ này đã khiến nhà thơ trở thành “ nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”( Hoài Thanh).

Mạch cảm xúc của bài thơ men theo mạch cảm xúc và tư duy của người nghệ sĩ. Khát khao níu giữ cái đẹp, sung sướng, si mê trước khung cảnh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, đến đoạn thơ thứ ba, giọng thơ bỗng trùng xuống, lắng lại trong một niềm tiếc nuối, tha thiết ngậm ngùi: tiếc xuân. Đó là một trạng thái logic, có thể thấu hiểu được của cảm xúc con người, đặc biệt lại là người nghệ sĩ với tâm hồn tinh tế và nhạy cảm gấp bội phần. Khi đứng trước một điều đẹp đẽ, sau khi say mê vui thích sẽ là cảm giác lo lắng, tiếc nuối, lo sợ điều đẹp đẽ ấy sẽ biến mất đi. Khổ thơ thứ hai là bức họa tuyệt mĩ về khung cảnh thiên nhiên mùa xuân sáng trong, tươi mới như một thiên đường trên mặt đất đã là tiền đề cho cảm xúc nuối tiếc cái đẹp, nuối tiếc thời xuân ở đoạn thơ tiếp theo.Dù say đắm cảnh xuân, thờ xuân và tình xuân, nhưng tiềm thức người nghệ sĩ luôn tự nhắc nhở mình về sự chảy trôi bất biến không ngừng của thời gian. Có phải vì vậy mà Xuân Diệu đã tự nhắc nhở chính mình hay cũng là nhắc nhở mọi người:
“ Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa.
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”


“ Không chờ nắng hạ mới hoài xuân” là một quan niệm sống hết sức tích cực mà Xuân Diệu muốn gửi gắm: hãy trân trọng những gì đang có, những điều đẹp đẽ đang ở thời hiện tại. Đừng chờ đến khi vuột mất rồi, khi thời tươi qua đi rồi mới ngồi hoài niệm lại những tháng ngày xưa cũ. Và nhà thơ ngậm ngùi nhận ra rằng:
“ Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Và xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”


Nhịp thơ chậm rãi, câu thơ định nghĩa mới lạ càng làm tăng thêm mạch cảm xúc, thể hiện khát vọng muốn cắt nghĩa, muốn lí giải, muốn truy nguyên về nguyên nhân và cội nguồn của sự chảy trôi của thời gian của nhà thi sĩ. Xuân Diệu ý thức được sự hữu hạn của thời xuân hay cũng chính là tuổi trẻ của con người. Hình ảnh thơ đối lập:” tới”-“ qua”; “non”-“già”, gợi một sự tiếc nuối trước sự bất biến của thời gian vô tình. Thời xuân cũng như tuổi trẻ sẽ dần mất đi, nhưng mùa xuân là quy luật của tự nhiên, mỗi năm sẽ lặp lại một lần. Nhưng còn tuổi trẻ của con người chỉ có một lần và “ chẳng bao giờ thắm lại”, một đi rồi sẽ mãi mãi không trở lại thêm một lần nào nữa.Hệ thống từ trái nghĩa tạo nên những vần thơ thể hiện sự đối lập giữa mùa xuân của đất trời và mùa xuân của đời người. Từ đó cho thấy một trái tim tiếc tuổi xuân, tiếc tuổi trẻ, một tấm lòng thiết tha yêu sống.
Không chỉ tiếc tuổi xuân, thiết tha yêu sống mà hồn thơ Xuân Diệu còn lắng đọng một nỗi tiếc đời đau đáu:
“ Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.”


Hình ảnh thơ gợi thời gian không gian và sự sống kết hợp với hệ thống những ngôn từ gợi cảm giác chia li :” chẳng còn”, “ tiếc” , “ chia phôi”, “ than thầm”, “ tiễn biệt” đã nêu lên một quy luật tất yếu của cuộc sống. Trong hội ngộ có chia li, trong tương phùng có tiễn biệt. Xuân Diệu như đã thổi vào hồn trời đất, sông núi, tháng năm một nỗi buồn li tán trước sự ý thức đúng đắn về sự chảy trôi của thời gian. Nếu như thời gian trong cổ thi là thời gian tuần hoàn và con người ung dung tự tại, an nhiên trước sự chảy trôi đó thì trong thơ Xuân Diệu, Sự chảy trôi của thờ gian đã đánh thức cái tôi thức giấc, run lên, âu lo trước sự vô tình của thời gian tuổi trẻ.Đó chính là biểu hiện cao nhất của một cái tôi yêu đời, thiết tha tuổi trẻ và luôn khao khát được chạy đua với thời gian để giành lại từng cơ hội.
Cuộc sống tuy đẹp như một thiên đường trên mặt đất, nhưng cuộc sống lại quá ngắn ngủi. Bởi vậy sống đẹp chính là biết sống vội vàng:
“Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm.”


Câu thơ ngắt giữa bởi một dấu châm than, nhịp thơ mạnh mẽ, dứt khoát, giọng thơ như thúc giục, cổ động.
“ Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mấy đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Cho chuếnh choáng mùi hương
Cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”


Đại từ nhân xưng “ tôi “ ở đầu bài thơ đã được tha bằng đại từ “ta” gợi hình dựng một cái ta đang dang rộng vòng tay, mở rộng tâm hồn để ôm cho khắp, để thâu cho hết, riết cho chặt mọi thanh sắc của thời tươi, của mùa xuân tuổi trẻ. Điệp từ “ ta muốn” kết hợp với phép liệt kê làm cho giọng thơ trở lại sôi nổi, say mê như tiếng lòng của chàng trai xanh tuổi , trẻ lòng. Một loạt các động từ cùng trường từ vựng : ôm, riết, say, thâu … kết hợp với hình ảnh thơ sống động, xôn xao: sự sống, mây, gió, cánh bướm, tình yêu,… thể hiện một tâm hồn trẻ trung, sôi nổi, ngập tràn xuân sắc, xuân tình để rồi nhà thơ kết lại bài thơ bằng một câu thơ hết sức đắm say:
“ Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!”

Mùa xuân hiện lên như một nàng tiên mùa xuân xinh đẹp với đôi má hồng duyên dáng khiến cho một con người rạo rực xuân sắc xuân tình muốn “ cắn”, tức là khát vọng muốn được sở hữu đối với mùa xuân hay cũng chính là cuộc đời và tuổi trẻ như tình yêu của người yêu với người yêu, tình nhân với tình nhân.
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TIM KIẾM PHÍA TRÊN WEB
ĐÃ CẬP NHẬT HẾT SÁCH GIẢI CÁC MÔN CÁC LỚP VUI LÒNG ĐÁNH TÊN BÀI KÈM LỚP PHÍA TRÊN TÌM KIẾM


Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời

ADS
Tags
bài, của, diệu, phân, tích, thơ, vội vàng, xuân




© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý
truyen tranh hay, truyen tranh online, ebook,ebook ngon tinh, van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
Powered by: vBulletin v3.8.2 Copyright ©2000-2024, Jelsoft Enterprises Ltd.