Go Back   ๑๑۩۞۩๑๑...TuThienBao.Com...๑๑۩۞۩๑๑ > VI - ♥ Không Gian IT ♥ > 27 - Ebook Tổng Hợp - SÁCH GIẢI FULL > Khoa Học Xã Hội > Văn Học Lớp 12


Tìm kiếm chủ đề bài viết ở đây trước khi hỏi TTB -Tìm bằng tiếng việt có dấu càng chính xác-Ví Dụ:Đánh vào Hwang mi ri để tìm truyện tác giả này
$$**=====DS Truyện Tranh Online=====**$$ $$**=====Truyện Tranh Mới Đang Update=====**$$

KHÔNG XEM ĐƯỢC ẢNH TRUY CẬP ĐỔI DNS CLICK VÀO ĐÂY


Trả lời
  #1  
25-06-2013, 03:56 PM
adminbao adminbao is offline
Đầy Tớ Của Nhân Dân
Facebook: https://www.facebook.com/tuthienbaocom

Default Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua đoạn thơ cuối trong bài thơ đất nước




Gắn bó với vận mệnh dân tộc và đất nước là đặc điểm nổi bật của nền văn học Việt Nam.Từ xưa,
văn học đã song hành cùng dân tộc trên suốt hằnh trình dựng nước và giữ nước.Nhưng có
lẽ,chưa bao giờ cảm hứng yêu nước lại thể hiện một cách phong phú và mãnh liệt như trong văn
học giai đoạn 1945_1975.nhiêdu thế hệ nhà văn,nhà thơ đã tập trung ngợi ca tình cảm thiêng
liêng này:Quang dũng(Tây tiến),Tố hữu(nước non ngàn dặm),nguyễn đình thi(đất nước),lê anh
xuân(dáng đứng việt nam).....Trong dòng chảy chung ấy,không thể không nhắc tới Nguyễn Khoa
Điềm với đoaajn trích Đất nước.Đoạn thơ đã thể hiện thành công tư tưởng đất nước là của nhân
dân.

"Những người vợ nhớ chồng góp cho đất nước những núi vọng phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn trống mái
Gót ngựa thánh gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi dựng đất tổ hùng vương"

Xưa nay khi nói về không gian địa lý,đặc biệt là các danh lam thắng cảnh.ng ta thường ngợi ca
sự hào phóng của tự nhiên,sự ưu ái của tạo hoá.Còn ở đây,qua cách miêu tả của Nguyễn khoa
điềm ,toàn b ộ không gian địa lý ấy đã trở thành tặng vật của nhân dân cho đất nước.
Điệp khúc "góp cho" trở đi trở lại trong những dòng thơ biến mỗi câu thơ thành một lời khẳng
định công lao to lớn của nhân dân.NHững ng vợ nhớ chồng không đắp nên những trái núi Vọng
Phu rải rác trên khắp mọi miền của đất nước bằng đôi bàn tay mình ,nhưng họ đãgosp cho đất
nước những cuộc chia ly,những năm tháng đợi chờ đằg đẵng.Nếu không có tình yêu,nỗi đau và
lòng chung thuỷ của bao nhiêu thế hệ phụ nữ từng đọi chờ,mong mỏi thì núi chit là núi,chỉ là đá
vô tri,vô giác mà thôi.Chính họ đã hoá thân thành những Vọng phu vòi vọi giữa trời.Cũng
thế,nhờ ánh mắt của những cặp vợ chồng yêu nhau thì hai tảng đá ngoài khơi xa mới hoá thành
đôi trống mái tình tứ,hoà thuận và đầm ấm bên nhau.
Không chỉ thế,bằng trí tưởng tượng phong phú và tình yêu đát nước ,nhân dân đã tạo nên linh
hồn cho cảnh vật,núi sông...Những ao đầm vùng đồng bằng và những ngọn đồi trùng điệp miền
trung du vốn là đặc điểm địa hình của từng miền đất.Vậy mà trong câu thiow của Nguyễn khoa
điềm mỗi không gian ấy đều chứa đựng một sức sống riêng.

"Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho đất nước núi bút , non nghiên
Con cóc,con gà quê hương góp cho Hạ long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc.ông trang,bà Đen,bà Điểm"

Nhà thơ vẫn tiếp tục nối mạch suy tưởng được khơi lên khi cảm nhận về không gian địa lý của
đát nước.Đối diện với bất kì địa hình nào ,miền đất nào tác giả cũng thấy sự hiện diện của nhân
dân.Chính nhân dân đã hình dung những dòng sông như con rôdng hoá thân mang nguồn nước
mát lành,bồi đắp phù sa,nuôi dưỡng sự sống.nhìn núi Bút .non nghiêng cũng liên tưởng đến
người học trog nghèo nào đó đã bền gan,vững chí trên con đường rùi mài kinh sử..........
Cảm hứng ngợi ca vai trò của nhân dân còn đươhc thể hiện qua cách nhìn của nhà thơ về thời
gian lịch sử.

'Em ơi em
Hẫy nhìn rất xa
vào bốn nghìn năm đất nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái,con trai bằng tuổi chúng ta..........."

Nguyễn khoa điềm đã mang đến một cách nhìn mới mẻ và sâu sắc về lịch sử,Nhà thơ tô đậm
hình ảnh của những đám đông người người lớp lớp.Đặc biệt là những người trẻ tuổi.Qua cách
miêu tả của nhà thơ,bốn nghìn lớp người đông đảo ấy hiện lên vừa bình thường ,vừa cao cả,phi
thường.

"Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh"

Chỉ vài dòng thơ ngắn nhừn đã khắc học hình tượng nhân dân trên cái nền của thời gian,lịch
sử.Họ là những con người bình dị,hiền hoà tròn cuộc sống "cui cút làm ăn, toan lo nghèo
khó".Nhưng khi có giặc,họ sẵn sàng hiến dâng cuộc đời mình như thể đây là một lẽ tự nhiên.Và
bằng chính cuộc đời mình, họ đã tạo ra lịch sử:

"Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm nên đất nước........

Tư tưởng đất nước là của nhân dân được thể hiện ở cả chiều sâu của bản sắc văn hoá...................
Từ những cảm xúc trên,Nguyễn khó điềm đã thức tỉnh trách nhiệm thiêng liêng của mỗi ngươì
và đặc biệt của thế hệ trẻ với quá khứ ,tương lai.Chất chính luận ấy hoà quyện viớ chất trữ tình
đằm thắm của cảm xúc đã mang lại sức rung đọng lớn cho đoạn trích...




THAM KHẢO : BÀI VĂN ĐẠT ĐIỂM 10 ĐẠI HỌC 2008

Câu 1 (2 điểm): Anh/ chị hãy nêu những nét chính trong quan điểm nghệ thuật của Nam Cao
trước Cách mạng tháng Tám.

Nam Cao là một nhà văn lớn của nền văn học hiện thực phê phán nói riêng và là một nhà văn lớn
của văn học Việt Nam nói chung. Sở dĩ Nam Cao có một vị trí xứng đáng như vậy bởi cả cuộc
đờicầm bút của mình, ông luôn trăn trở để nâng cao "Đôi Mắt" của mình. Tấtcả những gì Nam
Cao để lại cho cuộc đời chính là tấm gương của mộtngười "trí thức trung thực vô ngần" luôn tự
đấu tranh để vươn tới nhữngcảnh sống và tâm hồn thật đẹp. Với những nét tiêu biểu như vậy,
Nam Caođã thể hiện qua một hệ thống các quan điểm sáng tác của mình trước cáchmạng tháng
Tám.

Quan điểm nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng tháng Tám được thể hiện qua "Trăng
Sáng" và "Đời Thừa". Trong "TrăngSáng", nhà văn quan niệm văn chương nghệ thuật phải "vị
nhân sinh", nhàvăn phải viết cho hay, cho chân thực những gì có thật giữa cuộc đời,giữa xã hội
mà mình đang sống. Ông viết "Chao ôi! Nghệ thuật không làánh trăng lừa dối, không nên là ánh
trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp người lầm than".
Đóchính là quan điểm nghệ thuật của Nam Cao. Trước cách mạng, Nam Caomang tâm sự u uất,
đó không chỉ là tâm trạng của một người nghệ sĩ "tàicao, phận thấp, chí khí uất" (Tản Đà) mà đó
còn là tâm sự của ngườingư ời trí thức giàu tâm huyết nhưng lại bị xã hội đen tối bóp nghẹt
sựsống. Nhưng Nam Cao không vì bất mãn cá nhân mà ông trở nên khinh bạc.Trái lại ông còn có
một trái tim chan chứa yêu thương đối với người dânnghèo lam lũ. Chính vì lẽ đó mà văn
chương của ông luôn cất lên "nhữngtiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than".

Trong "Đời thừa", một tác phẩm tiêu biểu của văn NamCao trước cách mạng, Nam Cao cũng có
những quan điểm nghệ thuật. Khi màta đã chọn văn chương nghệ thuật làm nghiệp của mình thì
ta phải dồnhết tâm huyết cho nó, có như thế mới làm nghệ thuật tốt đư ợc. "Đói rétkhông có
nghĩa lý gì đối với gã tuổi trẻ say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp.Đầu hắn mang một hoài bão lớn.
Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vậtchất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một
thêm nảy nở.Hắn đọc, suy ngẫm, tìm tòi, nhận xét, suy tưởng không biết chán. Đốivới hắn lúc
ấy, nghề thuật là tất cả, ngoài nghệ thuật không có gì đángquan tâm nữa...". Nam Cao còn quan
niệm người cầm bút phải có lương tâmvà trách nhiệm đối với bạn đọc, phải viết thận trọng và
sâu sắc: "sựcẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là sự bất lương rồi, còn sự cẩu thảtrong văn chương
thì thật là đê tiện". Với Nam Cao, bản chất của vănchương là đồng nghĩa với sự sáng tạo "văn
chương không cần đến nhữngngười thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, văn
chương chỉdung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi khơi những nguồn chưaai khơi và
sáng tạo những gì chưa có". Quan điểm của Nam Cao là, mộttác phẩm văn chương đích thực
phải góp phần nhân đạo hóa tâm hồn bạnđọc: Nó phải chứa đựng một cái gì đó vừa lớn lao vừa
cao cả, vừa đauđớn vừa phấn khởi: "Nó ca ngợi tình thương, lòng bác ái, sự công bình,nó làm
người gần người hơn".

Văn nghiệp của Nam Cao (1915-1951) chủ yếu được thểhiện trước cách mạng tháng Tám. Quan
điểm sáng tác thể hiện trong haitruyện "Trăng Sáng" và "Đời Thừa" giúp ta hiểu sâu hơn về Nam
Cao. Quađó, ta thấy được những đóng góp về nghệ thuật cũng như tư tưởng của NamCao cho
văn học Việt Nam. Từ đấy giúp ta hiểu vì sao Nam Cao - một nhàvăn chưa tròn bốn mươi tuổi
lại để lại cho cuộc đời một sự nghiệp vănchương vĩ đại đến như vậy.

Câu 2 (5 điểm): Phân tích tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ (Vợ
chồng A Phủ - Tô Hoài).

Mị là nhân vật trung tâm trong truyện ngắn "Vợ chồngA Phủ" mà nhà văn Tô Hoài đã giành
nhiều tài năng và tâm huyết để xâydựng. Truyện được trích từ tập "truyện Tây Bắc" (1953) của
Tô Hoài.Trong chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng miền Tây Bắc (1952), Tô Hoàiđã có dịp
sống, cùng ăn, cùng ở với đồng bào các dân tộc miền núi,chính điều đó đã giúp Tô Hoài tìm
được cảm hứng để viết truyện này. TôHoài thành công trong "Vợ chồng A Phủ" không chỉ do
vốn sống, tình cảmsống của mình mà còn là do tài năng nghệ thuật cùa một cây bút tài hoa.Trong
"Vợ chồng A Phủ", Tô Hoài đã sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật,trong đó nổi bật và đáng chú
ý nhất là biện pháp phân tích tâm lý vàhành động của Mị trong từng chặng đường đời. Điểm
nghệ thuật ấy thật sựphát sáng và thăng hoa trong đoạn văn miêu tả tâm lý và hành động củanhân
vật Mị trong đêm mùa đông cứu A Phủ. Qua đó ta thấy được giá trịhiện thực và nhân đạo của tác
phẩm.

Trong tác phẩm này, điều gây cho bạn đọc ấn tượngnhất đó chính là hình ảnh của cô gái "dù làm
bất cứ việc gì, cô ta cũngcúi mặt, mắt buồn rười rượi". Đó là tâm lý của một con người cam
chịu,buông xuôi trước số phận, hoàn cảnh sống đen tối đầy bi kịch. Sở dĩ Mịcó nét tính cách ấy
là do cuộc sống hôn nhân cưỡng bức giữa Mị và A Sử.Mị không được lấy người mình yêu mà
phải ăn đời ở kiếp với một người màmình sợ hãi, lạnh lùng. Một nguyên nhân nữa chính là do uy
quyền, thầnquyền, đồng tiền của nhà thống lý Pá Tra đã biến Mị thành một đứa condâu gạt nợ.
Mang tiếng là con dâu của một người giàu có nhất vùng,nhưng thật sự Mị chỉ là một kẻ nô lệ
không hơn không kém. Điều đó làmMị đau khổ, Mị khóc ròng rã mấy tháng trời và từng có ý
định ăn nắm lángón kết thúc cuộc đời mình. Thế nhưng "sống lâu trong cái khổ, Mị quenkhổ
rồi". Chính vì thế Mị đã buông xuôi trước số phận đen tối của mình,trái tim của Mị dần chai sạn
và mất đi nhịp đập tự nhiên của nó.

Song song với nét tính cách đó lại là tâm trạng củamột người yêu đời, yêu cuộc sống, mong
muốn thoát khỏi hoàn cảnh sốngđen tối, đầy bi kịch. Điều đó đã được thể hiện trong đêm mùa
xuân.

Trong đêm mùa xuân ấy, tâm trạng của Mị phát triểntheo những cung bậc tình cảm khác nhau,
cung bậc sau cao hơn cung bậctrước. Ban đầu, Mị nghe tiếng sáo Mèo quen thuộc, Mị nhẩm
thầm bài hátngười đang thổi, rồi Mị uống rượu và nhớ lại kỷ niệm đẹp thời xa xưa...Mị ý thức
được về bản thân và về cuộc đời rồi Mị muốn đi chơi. Nhưngsợi dây thô bạo của A Sử đã trói
đứng Mị vào cột. Thế nhưng sợi dây ấychỉ có thể "trói" được thân xác Mị chứ không thể "trói"
được tâm hồncủa một cô gái đang hòa nhập với mùa xuân, với cuộc đời. Đêm ấy thật làmột đêm
có ý nghĩa với Mị. Đó là đêm cô thực sự sống cho riêng mình sauhàng ngàn đêm cô sống vật vờ
như một cái xác không hồn. Đó là một đêmcô vượt lên uy quyền và bạo lực đế sống theo tiếng
gọi trái tim mình.

Sau đêm mùa xuân ấy, Mị lại tiếp tục sống kiếp đờitrâu ngựa. Thế nhưng viết về vấn đề này, Tô
Hoài khẳng định: cái khổcái nhục mà Mị gánh chịu như lớp tro tàn phủ khuất che lấp sức
sốngtiềm tàng trong lòng Mị. Và chỉ cần có một luồng gió mạnh đủ sức thổiđi lớp tro buồn nguội
lạnh ấy thì đốm lửa ấy sẽ bùng cháy và giúp Mịvượt qua cuộc sống đen tối của mình. Giá trị
nhân đạo của tác phẩm ngờilên ở chỗ đó.

Và cuối cùng, luồng gió ấy cũng đến. Đó chính lànhững đêm mùa đông dài và buồn trên núi rừng
Tây Bắc đang về. Mùa đôngrét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài
bếplửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị tróiđứng chờ chết giữa
trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửahơ tay "Dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng


thế thôi". Tại sao Mị lạilãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chếtlà
một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen vớiđiều đó nên chẳng ai quan
tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ,Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi
đau khổ của ngườikhác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cảrồi, Mị
lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mịlé mắt trông sang, thấy hai mắt A
Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắtlấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng
nước mắt củamột kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòngnước mắt lấp
lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị.Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người,
trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuântrước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước
mắt rơixuống miệng, xuống cổ không lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giốngmình về cảnh
ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông chonhau. Mị nhớ lại những chuyện thật
khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nóbắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cái
nhà này”. Lýtrí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chếtcòn ác hơn cả
thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà mộtngười thanh niên khỏe mạnh, siêng
năng, say sưa với cuộc đời đã phảilấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của
A Phủ khôngbằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thếmà thôi.
Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đaukhổ cay đắng cho thân phận của
mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắtta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ
xương ở đâythôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này, chỉ đêm naythôi là
người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ngườikia việc gì mà phải chết như thế. A
Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”.Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ
phải chếtvì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh APhủ bỏ trốn và
chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cộttưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không
thấy sợ, sự suy tưởng của Mị làcó cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu
đời,yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêuthành một con dâu gạt nợ,
một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khitrói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng
lẽ chúng lại khôngđối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh”của
A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với ngườicùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến
chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúpMị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị
xót xa trước sốphận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đếncái cảnh
mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến vớihành động: dùng dao cắt lúa rút
dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là mộtviệc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp
với nét tâm lícủa Mị trong đêm mùa đông này.

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờmình dám làm một chuyện động trời đến
vậy. Mị thì thào lên một tiếng“đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi, còn Mị vẫn đứng
lặngtrong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mốicủa Mị lúc này.
Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủhay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức
sống tiềm tàng đã thôi thúcMị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn
băngđi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúaphong kiến đương
thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mịđuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị
nói với A Phủ sau bao nhiêu nămcâm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói
khaokhát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biếtbao tình cảm và
làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân- hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô
hình ràng buộc cuộc đời củamình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người
đã rờibỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗibuồn đau, tủi nhục
thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏHồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những
ngày phía trước ra sao họ cũngchưa biết đến…

Rõ ràng, trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàngđóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính
nó đã giúp Mị vượt lên trênsố phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc
Mị tựcứu lấy bản thân mình. Qua đoạn trích trên, Tô Hoài đã ca ngợi nhữngphẩm chất đẹp đẽ
của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụnự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất
cảm thông và xót thương cho sốphận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Thế nhưng bằng một trái
tim nhạycảm và chan chứa yêu thương, Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửacòn sót lại trong
trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ởđó. Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng
đã khẳng định được chân límuôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để
chốnglại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Quả thật, tác phẩmnày giúp ta hiểu
được nhiều điều trong cuộc sống.

Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” nói riêng và tập“Truyện Tây Bắc” nói chung, ta hiểu vì sao
Tô Hoài lại thành công trongthể loại truyện ngắn đến như vậy. Nét phong cách nghệ thuật: màu
sắcdân tộc đậm đà chất thơ chất trữ tình thấm đượm, ngôn ngữ lời văn giàutính tạo hình đã hội tụ
và phát sáng trong truyện ngắn này. Tác phẩm“Truyện Tây Bắc” xứng đáng với giải nhất truyện
ngắn - giải thưởng doHội nghệ sĩ Việt Nam trao tặng năm 1954 - 1955. Và “Vợ chồng A
Phủ”thực sự để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng bạn đọc bởi những giá trịnghệ thuật, giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo của nó. Truyện ngắnnày quả là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong
cách Tô Hoài.

Đối với riêng em, truyện “Vợ chồng A Phủ” giúp em cảmthông sâu sắc trước nỗi khổ của người
phụ nữ trong xã hội phong kiếnmiền núi, từ đó giúp em ngày càng trân trọng khát vọng của họ
hơn. Đâyquả là một tác phẩm văn chương đích thực bởi nó đã góp phần nhân đạohóa tâm hồn
bạn đọc như Nam Cao đã quan niệm trong truyện ngắn “Đờithừa”.

Phần riêng (3 điểm): Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử:

Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Cảm nhận thơ trữ tình xét cho cùng là cảm nhận "cáitình" trong thơ và tâm trạng của nhân vật trữ
tình trước thiên nhiên,vũ trụ, đất trời. Đến với thơ ca lãng mạn Việt Nam, giai đoạn 1932-1945
"ta thoát lên trên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tìnhcùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng
cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắmsay cùng Xuân Diệu" (Hoài Thanh - Thi nhân Việt
Nam). Đúng thế, bạn đọcđương thời và hôm nay yêu thơ của Hàn Mặc Từ bởi chất "điên cuồng"
củanó. Chính "chất điên" ấy đã làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo,riêng biệt, mới mẻ của
Hàn Mặc Tử. "Chất điên" trong thơ ông chính làsự thay đổi của tâm trạng khó lường trước được.
Nét phong cách đặc sắcấy đã hội tụ và phát sáng trong cả bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" của nhà
thơrất tài hoa và cũng rất đỗi bất hạnh này. "Đây thôn Vĩ Dạ" trích từ tậpThơ Điên của Hàn Mặc
Tử. Chất điên cuồng ấy thể hiên cụ thể và rõ néttrong khổ thơ:


"Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?"

Với lời trách cứ nhẹ nhàng dịu ngọt vừa như một lời mời, Hàn Mặc Tử trở về với thôn Vĩ Dạ
trong mộng tưởng:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cây nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Cảnh vật ở thôn Vĩ Dạ - một làng kề sát thành phố Huếbên bờ Hương Giang với những vườn cây
trái, hoa lá sum suê hiện lênthật nên thơ, tươi mát làm sao. Đó là một hàng cau thẳng tắp đang
tắmmình dưới ánh “nắng mới lên” trong lành. Chưa hết, rất xa là hình ảnh“nắng hàng cau nắng
mới lên” còn rất gần lại là “vườn ai mướt quá xanhnhư ngọc”. “Mướt quá” gợi cả cây non tràn
trề sức sống xanh tốt. Màu“mướt quá” làm cho lòng người như trẻ hơn và vui tươi hơn. Lời thơ
khencây cối xanh tốt nhưng lại như huyền ảo, lấp lánh mới thấy hết cẻ đẹpcủa “vườn ai”. Trong
không gian ấy hiện lên khuôn “mặt chữ điền” phúchậu, hiền lành vừa quen vừa lạ, vừa gần, vừa
xa, vừa thực vừa ảo bởi“lá trúc che ngang”. Câu thơ đẹp vì sự hài hòa giữa cảnh vật và
conngười. “Trúc xinh” và “ai xinh” bên nhau làm tôn lên vẻ đẹp của conngười. Như vậy tâm
trạng của nhân vật trữ tình ở đoạn thơ này là niềmvui, vui đến say mê như lạc vào cõi tiên, cõi
mộng khi được trở về vớicảnh và người thôn Vĩ.

Thế nhưng cũng cùng không gian là thôn Vĩ Dạ nhưngthời gian có sự biến đổi từ “nắng mới lên”
sang chiều tà. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng có sự biến đổi lớn. Trong mắt thi nhân, bầu
trờihiện lên “Gió theo lối gió mây đường mây” trong cảnh chia li, uất hận.Biện pháp nhân hóa
cho chúng ta thấy điều đó. “Gió theo lối gió” theokhông gian riêng của mình và mây cũng thế.
Câu thơ tách thành hai vế đối nhau; mở đầu vế thứ nhất là hình ảnh “gió”, khép lại cũng bằng
gió;mở đầu vế thứ hai là “mây”, kết thúc cũng là “mây”. Từ đó cho ta thấy“mây” và “gió” như
những kẻ xa lạ, quay lưng đối với nhau. Đây thực sựlà một điều nghịch lí bởi lẽ có gió thổi thì
mây mới bay theo, thế màlại nói “gió theo lối gió, mây đường mây”. Thế nhưng trong văn
chươngchấp nhận cách nói phi lí ấy. Tại sao tâm trạng của nhân vật trữ tình vốn rất vui sướng
khi về với thôn Vĩ Dạ trong buổi ban mai đột nhiênlại thay đổi đột biến và trở nên buồn như
vậy?. Trong mộng tưởng, HànMặc Tử đã trở về với thôn Vĩ nhưng lòng lại buồn chắc có lẽ bởi
mốitình đơn phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và người con gái xứ Huếmộng mơ làm nên
tâm trạng ấy. Quả thật “Người buồn cảnh có vui đâu baogiờ” nên cảnh vật xứ Huế vốn thơ
mộng, trữ tình lại bị nhà thơ miêu tảvô tình, xa lạ đến như vậy. Bầu trời buồn, mặt đất cũng
chẳng vui gìhơn khi “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.

Dòng Hương Giang vốn đẹp, thơ mộng đã bao đời đi vàothơ ca Việt nam thế mà bây giờ lại
“buồn thiu” – một nỗi buồn sâm thẳm,không nói nên lời. Mặt nước buồn hay chính là con sóng
lòng "buồn thiu”của thi nhân đang dâng lên không sao giấu nổi. Lòng sông buồn, bãi bờcủa nó
còn sầu hơn. “Hoa bắp lay” gợi tả những hoa bắp xám khô héo, úatàn đang “lay” rất khẽ trong
gió. Cảnh vật trong thơ buồn đến thế làcùng. Thế nhưng đêm xuống, trăng lên, tâm trạng của

nhân vật trữ tìnhlại thay đổi:
Tuthienbao.com
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay”

Sông Hương “buồn thiu” lúc chiều dưới ánh trăng đã trở thành “sông trăng” thơ mộng. Cắm xào
đậu bên trên con sông đó là“thuyền ai đậu bến”, là bức tranh càng trữ tình, lãng mạn. Hình
ảnh“thuyền” và “sông trăng” đẹp, hài hòa biết bao. Khách đến thôn Vĩ cấttiếng hỏi xa xăm “Có
chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu “thuyền ai” đó cóchở trăng về kịp nơi bến hẹn, bến đợi hay
không? Câu hỏi tu từ vang lênnhư một nỗi lòng khắc khoải, chờ đợi, ngóng trông được gặp
gương mặtsáng như “trăng’ của người thôn Vĩ trong lòng thi nhân. Như thế mớibiết nỗi lòng của
nhà thơ giành cho cô em gái xứ Huế tha thiết biếtnhường nào. Tình cảm ấy quả thật là tình c ảm
của “Cái thưở ban đầu lưu luyến ấy. Ngàn năm nào dễ mấy ai quên” (Thế Lữ).

Đến đây ta hiểu thêm về lòng “buồn thiu” của nhân vậttrữ tình trong buổi chiều. Như vậy diễn
biến tâm lí của thi nhân hếtsức phức tạp, khó lường trước được. Chất “điên” của một tâm trạng
vuivới cảnh, buồn với cảnh, trông ngóng, chờ đợi vẫn được thể hiện ở khổ thơ kết thúc bài thơ
này:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Vẫn là một tâm trạng vui sướng được đón “khách đườngxa” - người thôn Vĩ đến với mình, tâm
trạng nhân vật trữ tình lại khéplại trong một nỗi đau đớn, hoài nghi “Ai biết tình ai có đậm đà?”.
“Ai”ở đây vừa chỉ người thôn Vĩ vừa chỉ chính tác giả. Chẳng biết ngườithôn Vĩ có còn nặng
tình với mình không? Và chẳng biết chính mình còn mặn mà với “áo em trắng quá” hay không?
Nỗi đau đớn trong tình yêu chính là sự hoài nghi, không tin tưởng về nhau. Nhân vật trữ tình
rơivào tình trạng ấy và đã bộc bạch lòng mình để mọi người hiểu và thôngcảm. Cái mới của thơ
ca lãng mạn giai đoạn 1932 - 1945 cũng ở đó.

Đọc xong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử,nhất là khổ thơ “Gió theo lối gió -…. kịp
tối nay” để lại trong lòngngư ời đọc những tình cảm đẹp. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm tâm tư của
mộtnhà thơ sắp phải giã từ cuộc đời. Lời thơ vì thế trầm buồn, sâu lắng,đầy suy tư.

Bạn đọc đương thời yêu thơ của Hàn Mặc Tử bởi thi nhân đã nói hộ họ những tình cảm sâu lắng
nhất, thầm kín nhất của mình trong thời đại cái “tôi”, cái bản ngã đang tự đấu tranh để khẳng
định.Tình cảm trong thơ Hàn Mặc tử là tình cảm thực, do đó nó sẽ ở mãi trongtrái tim bạn đọc.
Ấn tượng về một nhà thơ của đất Quảng Bình đầy nắngvà gió sẽ không bao giờ phai nhạt trong
tâm trí người Việt Nam.


Xem thêm:
http://tuthienbao.com/forum/showthread.php?t=107694
http://tuthienbao.com/forum/showthread.php?t=111318
TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TIM KIẾM PHÍA TRÊN WEB
ĐÃ CẬP NHẬT HẾT SÁCH GIẢI CÁC MÔN CÁC LỚP VUI LÒNG ĐÁNH TÊN BÀI KÈM LỚP PHÍA TRÊN TÌM KIẾM

Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời

ADS



© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý
truyen tranh hay, truyen tranh online, ebook,ebook ngon tinh, van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12,
Powered by: vBulletin v3.8.2 Copyright ©2000-2024, Jelsoft Enterprises Ltd.