| 
				 Tràng Giang của Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Anh/chị hãy phân tích bài thơ Tràng Giang để làm sáng tỏ nhận xét trên. 
 
 
 
 
| 
 
| 
| 
 
Tràng Giang của Huy Cận là bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Anh/chị hãy phân tích bài thơ Tràng Giang để làm sáng tỏ nhận xét trên.
 TRÀNG GIANG
 Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
 H.C
 Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
 Con thuyền xuôi mái nước song song.
 Thuyền về nước lại, sầu trăm ngã;
 Củi một cành khô lạc mấy dòng.
 Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
 Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
 Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
 Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
 
 Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
 Mênh mông không một chuyến đò ngang.
 Không cầu gợi chút niềm thân mật
 Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
 
 Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
 Chim nghiêng cánh nhỏ : bóng chiều sa
 Lòng quê dợn dợn vời con nước
 Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
 
 
 Bài làm:
 
 Nhà thơ  Huy Cận  tên  thật là  Cù Huy Cận, với  giọng thơ rất  riêng đã  khẳng định  tên tuổi
 của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm
 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng tám, thơ ông mang nổi sầu về kiếp người và ca
 ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca",
 Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi
 nguồn từ cuộc sống chiến đấu  và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi  ngày lại
 sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu
 biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay,
 tiêu biểu  và nổi  tiếng  nhất của  Huy Cận  trước  Cách mạng  tháng  tám.  Bài  thơ được  trích từ tập
 "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh
 mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, cám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô
 định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại,
 đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.
 
 Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
 Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp
 ....
 Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
 
 Ngay từ  thi  đề,  nhà  thơ  đã  khéo gợi  lên vẻ  đẹp cổ  điển lại  hiện  đại  cho  bài  thơ.  "Tràng
 giang"  là một  cách nói  chệch đầy  sáng tạo của  Huy Cận.  Hai  âm  "anh"  đi  liền  nhau đã gợi  lên
 trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát.
 Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong
 thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
 Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh
 mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi
 nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy cận lại tìm về thiên nhiên để thể
 hiện nổi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy
 sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
 Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của
 cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát,
 mênh  mông của  thiên  nhiên,  lòng  con  người dấy  lên  tình cảm  "bâng  khuâng"  và  nhớ. Từ  láy
 "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã,
 u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các
 khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
 Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như
 thế:
 
 Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
 Con thuyền xuôi mái nước song song.
 Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
 Củi một cành khô lạc mấy dòng.
 
 Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy
 nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và
 không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang
 ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng
 sông gợi  sóng "điệp  điệp", nước  "song  song"  ấy  là một  "con  thuyền  xuôi  mái", lững lờ  trôi  đi.
 Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên,
 một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.
 Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng
 
 Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
 Củi một cành khô lạc mấy dòng.
 
 Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà
 Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa.
 Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng
 cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.
 Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng
 khô lạc mấy  dòng".  Huy Cận đã  khéo  dùng  phép đảo  ngữ kết hợp với  các từ ngữ  chọn lọc,  thể
 hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô
 héo, cạn  kiệt  nhựa sống,  "lạc"  mang nỗi sầu  vô  định,  trôi nổi, bập bềnh  trên  "mấy  dòng" nước
 thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạc đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô
 vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
 Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi
 buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu
 hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một
 vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không
 chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm
 đơn côi, lạc lõng.
 Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:
 
 Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
 Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
 
 Hai từ  láy  "lơ thơ" và "đìu hiu"  được tác giả khéo sắp xếp  trên cùng một dòng  thơ đã vẽ
 nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa
 khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên
 đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang
 nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một
 nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con
 người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút
 gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.
 Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:
 
 "Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
 Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
 
 "Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa:
 bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo
 của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời,
 của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là
 mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết
 bao: "bến cô liêu".
 Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông,
 trời, nắng, cuộc sông cón người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã,
 chia lìa.
 Nhà  thơ lại  nhìn về  dòng  sông,  nhìn cảnh  xung  quanh  mong mỏi  có  chút  gì  quen  thuộc
 mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự
 khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:
 
 Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
 Mênh mông không một chuyến đò ngang.
 Không cần gợi chút niềm thân mật,
 Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
 
 Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó
 gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy
 Cận không chỉ có một hay  hai cánh bèo, mà là  "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến
 lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối
 hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên
 nhiên nối  tiếp  thiên  nhiên, dường  không  có  con người,  không  có  chút  sinh  hoạt của con  người,
 không có sự giao hoà, nối kết:
 
 Mênh mông không một chuyến đò ngang
 Không cầu gợi chút niềm thân mật.
 
 Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn những kết nối
 của  con  người.  Trước mắt  nhà  thơ  giờ  đây  không  có chút  gì gợi niềm  thân mật để  kéo  mình  ra
 khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay
 chuyến  đò  ngang,  phương  tiện  giao kết của  con  người, dường  như  đã bị  cõi  thiên  nhiên  nhấn
 chìm, trôi đi nơi nào.
 Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:
 
 Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
 Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
 
 Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng
 tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ
 điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ
 của Đỗ Phủ:
 
 Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
 
 Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ
 bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó
 đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
 Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai
 chấm  này gợi mối  quan hệ  giữa  chim  và  bóng  chiều:  Chim  nghiêng  cánh  nhỏ  kéo  bóng  chiều,
 cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng
 lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng
 chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
 Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:
 
 Lòng quê dợn dợn vời con nước,
 Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
 
 "Dợn dợn"  là một từ láy  nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng  thấy  trước đó. Từ  láy
 này hô ứng cùng cụm từ  "vời con nước"  cho thấy một nổi niềm  bâng khuâng, cô đơn của "lòng
 quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương
 đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước
 cảnh mất nước.
 Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng
 cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy
 Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm
 lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
 Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện
 qua lối  thơ bảy  chữ  mang  đậm  phong vị  Đường  thi,  qua  cách  dùng từ  láy  nguyên,  qua  việc sử
 dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như:  mây, sông, cánh chim...  Và trên hết là cách vận dụng
 các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
 Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót",
 dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi
 đứng  giữa  quê hương, nét tâm  trạng hiện đại của các nhà tri  thức  muốn đóng  góp sức  mình cho
 đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.
 Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp
 cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.
 |  
 
 |  |  BÁO LỖI BÀI VIẾT
 Hãy gửi cốc trà đá cho TTB tài khoản ngân hàng phía dưới hoặc paypal : 
    paypalme/tuthienbao
 Giúp có kinh phí duy trì Free
 
   TÌM BÀI VIẾT KHÁC SEARCH TRÊN THANH TìM KIẾM PHÍA TRÊN WEB
 
 
 
			
			
			
			
				  |  
 
	
		
 
  	 	 
 
	
ADS
	
	
 
 Miễn trừ trách nhiệm.NẾU CÓ ĐIỀU KIỆN HÃY MUA SÁCH ỦNG HỘ NHÀ XUẤT BẢN© Tuthienbao.com- TTB chúng tôi không cung cấp chức năng đăng ký thành viên để viết bài hay bình luận - Nếu có khiếu nại chung tôi sẽ xử lý.Mọi dữ liệu về diễn đàn trên website này đều được chúng tôi và các thành viên tham gia website tổng hợp từ  tất cả các trang website .Do đó, chúng tôi không chịu trách nhiệm về những dữ liệu được chia sẻ tại đây.Truyện Nội Dung được chia sẻ chỉ với mục đích giải trí, phi lợi nhuận. Mọi bản quyền thuộc về tác giả và nhà xuất bản gốc.Nếu có yêu cầu gỡ bỏ, xin liên hệ qua email
  
truyen tranh,
truyen tranh 8,truyen tranh hay,
truyen tranh online,
ebook,ebook ngon tinh,
van hoc lop 5,van hoc lop 6,van hoc lop 7,van hoc lop 8,van hoc lop 9,van hoc lop 10,van hoc lop 11,van hoc lop 12, |