( Thạch Lam )
1/ Tác giả Thạch Lam ( 1910 – 1942)
- Thạch Lam là một nhà văn nổi tiếng về truyện ngắn; là một trong những cây bút chủ chốt của hai tờ báo Phong hoá ngày nay (cơ quan ngôn luận của nhóm Tự lực văn đoàn).
-Tác phẩm của Thạch Lam đậm cảm hứng lãng mạn nhưng không thoát ly hiện thực đời sống.
Văn Thạch Lam nhẹ nhàng, tinh tế với tấm lòng xót thương , nhân hậu với người nghèo.
-Tác phẩm tiêu biểu ( sgk).
I/Tìm hiểu chung
2/ Xuất xứ -nội dung tác phẩm:
a.Xuất xứ :
- “Hai đứa trẻ” là một trong những truyện ngắn được in trong tập truyện “Nắng trong vườn” của Thạch Lam xuất bản năm 1938.
b.Nội dung :
- Tác phẩm là bức tranh chân thực và cảm động về cuộc sống của những người nghèo ở một phố huyện xa xôi, hẻo lánh .Nơi đây có một cái chợ nhỏ, một ga xép và một đoàn tàu đi qua đêm đêm.
-Tác phẩm còn bộc lộ tâm sự và ước vọng mơ hồ tội nghiệp và đáng thương của hai đứa trẻ.
1. Đọc và giải nghĩa từ khó :
- Đọc chính xác và mạch lạc.Gịong đọc chậm rãi, nhẹ nhàng, gợi được không khí nghèo khổ, tăm tối và bế tắc của cuộc sống và con người ở một phố huyện nghèo ( nhất là tâm trạng của Liên và An ).
- Đọc và nắm vững nghĩa của các từ khó trong phần chú thích.
II/ ĐỌC HIỂU
2.Phân tích:
a. Phố huyện vào lúc chiều tàn :
a1. Cảnh thiên nhiên:
*Cảnh thiên nhiên lúc chiều tàn được ghi lại bằng những âm thanh, hình ảnh nào?
-Âm thanh :
+ Tiếng trống thu không, báo hiệu trời sắp tối.
+ Ngoài đồng xa, tiếng ếch nhái…
+ Trong cửa hàng, tiếng muỗi vo ve…
quen thuộc, gần gũi, gợi buồn .
-Hình ảnh, đường nét :
+Phương Tây đỏ rực …
+Đám mây ánh hồng…
+Dãy tre làng cắt hình rõ rệt trên nền trời…
hình ảnh, màu sắc , đường nét gợi tả cảnh hoàng hôn lúc chiều buông sinh động và chân thực
* Tóm lại, cảnh thiên nhiên lúc chiều tàn hiện lên như một “bức hoạ đồng quê” quen thuộc, gần gũi và gợi cảm. Đó là một bức tranh quê hương bình dị mà không kém phần thơ mộng ở ngoại ô Việt Nam.
a2.Cảnh sinh hoạt của người dân:
*Sau bức tranh thiên nhiên bình dị và thơ mộng , cuộc sống của người dân hiện lên như thế nào?
- Cảnh chợ tàn : người về hết, tiếng ồn ào không còn, chỉ có rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị…
- Cảnh sinh hoạt của người dân:
+Mấy đứa trẻ con nhà nghèo nhặt rác.
+Mẹ con chị Tí nghèo khổ …
+Bà cụ Thi hơi điên.
+Vợ chồng bác Sẩm…; gánh phở bác Siêu…
+Hai chị em Liên và gian hàng tạp hoá nhỏ…
Cảnh chợ tàn và những kiếp người tàn tạ, lầm than, nghèo đói,cơ cực và tàn lụi của phố huyện.
a3.Tâm trạng của Liên :
*Trước cảnh ngày tàn và những kiếp người tàn tạ, Liên có tâm trạng gì?
- Lòng buồn man mác trước giờ khắc của ngày tàn.
-Cảm nhận được mùi riêng của đất…
-Động lòng thương trẻ em nghèo …
-Quan tâm và xót thương với sự vất vả của mẹ con chị Tí…
Liên là một cô bé có tâm hồn tinh tế,nhạy cảm, biết chia sẻ - cảm thông với những người nghèo .
@/ Nét đặc sắc về nghệ thuật miêu tả và tấm lòng của nhà văn :
- Gịong văn nhẹ nhàng, câu văn giàu hình ảnh và nhạc điệu, uyển chuyển, tinh tế …dễ đi vào lòng người.
Từ đó, đoạn văn thể hiện sâu sắc tình cảm yêu mến, gắn bó với thiên nhiên - với quê hương đất nước và tấm lòng xót thương sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ của nhà văn.
b.Phố huyện khi đêm xuống :
- Đây là thời điểm chuyển giao giữa ánh sáng và bóng tối.
b1.Cảnh thiên nhiên :
- Trên trời : “ngàn sao lấp lánh”
- Mặt đất :
+ Bóng tối phủ đầy .
+Ánh sáng le lói, ít ỏi
bài khác
I/Tìm hiểu chung
1/Tác giả
Thạch Lam (1910-1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi là Nguyễn Tường Lân). Nhà văn, nổi tiếng về truyện ngắn. Viết xúc động về người nghèo, những em bé nhà nghèo. Văn nhẹ nhàng, tinh tế với tấm lòng xót thương, nhân hậu. Chất thơ man mác trong văn xuôi.
Tác phẩm - Các tập truyện ngắn: Gió đầu mùa (1977), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), Tập tuỳ bút Hà Nội 36 phố phường…
2/Xuất xứ, chủ đề
- Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” rút trong tập “Nắng trong vườn” (1938)
- Tác phẩm nói lên lòng xót thương đối với những kỷ niệm và ước mơ bình dị, cảm động của những em bé nơi phố huyện nghèo ngày xưa.
II/Phân tích
1. Phố huyện nghèo và những người nghèo
- Phố huyện là một thị trấn nhỏ và nghèo. Xung quanh là cánh đồng và xóm làng. Gần bờ sông. Có đường sắt chạy qua, có một ga tàu. Chiều hè tiếng ếch nhái râm ran. Đên xuống, phố vắng, tối im lìm. Rất ít đèn.
- Chợ chiều vãn. Chỉ có vài đứa bé lang thang đi lại nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre… bóng chập chờn.
- Chị Tí mò cua bắt tép, tối đến dọn hàng nước dưới gốc bàng; dọn hàng từ chập tối cho đến đêm “chả kiếm được bao nhiêu?”. Thằng cu bé con chị Tí - xách điếu đóm và khiêng 2 cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra trông thật tội nghiệp.
- Bà cụ Thi hơi điên, cười khanh khách, ngửa cổ ra đàng sau, uống một hơi cạn sạch cút rượu, lảo đảo lần vào bóng tối.
- Vợ chồng bác xẩm “tiếng đàn bầu bần bật”, thằng con bò ra đất…
- Bác phở Siêu gánh hành đi trong đêm, tiếng đòn gánh kĩu kịt, bóng bác mênh mang,… Phở của bác là món quà xa xỉ mà chị em Liên không bao giờ mua được.
- Phố tối, đường ra sông tối, cái ngõ vào làng lại sẫm đen hơn. Một vài ngọn đèn leo lét… Ngọn đèn con của chị Tí, bếp lửa của bác Siêu chiếu sáng một vùng đất cát, ngọn đèn của Liên từng hột sáng lọt qua phên nứa…
Tóm lại, phố nghèo, yên tĩnh và đầy bóng tối. Con người phố huyện âm thầm, lạnh lẽo. “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ? Cách viết nhẹ nhàng, đầy xót thương, thấm một nỗi buồn thấm thía. Đó là tình cảm nhân đạo của Thạch Lam.
2. Chị em Liên:
- Gia cảnh sa sút nghèo. Cha mất việc. Cả nhà bỏ Hà Nội về quê. Mẹ làng hàng sáo. Chị em Liên được mẹ cho trông coi một cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, phên nứa dán giấy nhật trình.
- An ngây thơ. Liên cảm thấy cô đã lớn, đảm đang, kiêu hãnh vì cái dây xà tích bạc ở thắt lưng “vì nó tỏ ra chỉ là người con gái lớn và đảm đang”.
- Gian hàng tối âm thầm, đầy muỗi. Đêm nào hai chị em Liên và An cũng ngồi dưới gốc bàng, trên cái chõng tre để đợi chuyến tàu đêm. Để bán hàng theo lời mẹ dặn. Còn là một niềm vui nhỏ nhoi.
- An trước lúc ngủ còn dặn chị đánh thức khi tàu đến. Đợi tàu là đợi ánh sáng. Con tàu từ Hà Nội về mang theo. Con tàu gợi nhớ kỷ niệm tuổi thơ: ngày bố còn đi làm, mẹ nhiều tiền được hưởng những thức quà ngon lạ, được đi chơi bờ hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ.
- Đợi tàu là đợi những mơ tưởng. Với Liên, trong ký ức và hiện tại “Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Thế giới ấy khác hẳn đối với cuộc đời của Liên, của dân nghèo phố huyện, khắc hẳn vầng sáng ngọn đèn chị Tí và ánh lửa của bác Siêu.
- Giấc ngủ của Liên, lúc đầu mờ dần đi “giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết…” về sau “mặt chị nặng dần”, chìm dần vào “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh,… tĩnh mịch và đầy bóng tối”.
Tóm lại, ngòi bút của Thạch Lam tả ít mà gợi nhiều, nhỏ nhẹ, làm xúc động người đọc trước những số phận, những cảnh đời vui ít buồn nhiều, âm thầm, lặng lẽ và đầy bóng tối. Có mơ ước nhỏ nhoi, bình dị trước một cái gì vừa thuộc về quá vãng, vừa hướng tới tương lai.
III/Kết luận
Truyện “Hai đứa trẻ” vừa hiện thực vừa mang màu sắc lãng mạn. Cảnh đợi tàu thật xúc động. Một ngồi bút tinh tế tạo ra những trang văn xuôi nhẹ nhàng đầy chất thơ. Một trái tim đầy tình người. Văn Thạch Lam cho ta nhiều nhã thú, đúng như nhà văn Nguyễn Tuân đã nói.
BÀi khác
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
Thạch Lam (1910 - 1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vinh, sau đổi thành Nguyễn Tường Lân. Ông cùng với Nhất Linh và Hoàng Đạo là những cây bút chủ lực của nhóm Tự lực văn đoàn.
Tác phẩm chính bao gồm các tập truyện ngắn: Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc, tiểu thuyết Ngày mới, tiểu luận Theo dòng, tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường.
Hai đứa trẻ là truyện ngắn xuất sắc, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Tác phẩm thuộc loại truyện nagứn trữ tình, qua tâm trạng của hai đứa trẻ và cảnh sống nghèo cực của những người dân nơi phố huyện nhà văn đã thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc về thân phận con người.
Và vậy, tác phẩm vừa có giá trị hiện thực, vừa thấm đẫm tinh thần nhân đạo. Vận dụng các thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản, nhà văn đã đặc tả được cảnh nghèo và tương lai không mấy sáng sủa của những người dân phố huyện.
Hai đứa trẻ là câu chuyện về một ngày thường như bao ngày tháng khác ở một phố huyện. Nhà văn chọn bối cảnh là một ngày chợ phiên. Và thời điểm bắt đầu truyện là cảnh chợ chiều vừa tàn. Các tình tiết được kể tự nhiên theo chiều thời gian tuyến tính. Liên và An dọn hàng và bắt đầu ngồi chờ đợi chuyến tàu đêm. Cuộc sống của chị em Liên và những người dân nơi phố huyện như vợ chồng bác Xẩm, mẹ con chị Tý, bác phở Siêu đều chẳng có gì đặc biệt. Tất cả đều bàng bạc, lặng lẽ và lầm lụi. Chuyện chợ tàn, chuyện chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua với một chút hy vọng được nhìn thấy trong một khoảnh khắc rất ngắn thứ ánh sáng sang trọng trên những toa tầu, hồi ức về những ngày sống sung sướng ở Hà Nội của hai đứa trẻ và những suy nghĩ của cô bé Liên là tất cả tình tiết cơ bản của câu chuyện. Một câu chuyện dung dị, đời thường, không tô vẽ và một lối kể chuyện như tâm tình thủ thỉ với chính mình đã tạo nên thành công cho tác phẩm.
Giá trị hiện thực thể hiện ở chỗ nhà văn đã tái hiện một cách chân thực cuộc sống buồn tẻ nơi phố huyện qua đó phần nào phản ánh hiện thực đen tối của xã hội Việt Nam trước cách mạng.
Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, đó là sự cảm thông của nhà văn đối với những kiếp người nhỏ bé, nhà văn đã lên tiếng đòi quyền sống cho những thân phận vô danh đồng thời ckhẳng định sức sống mãnh liệt không gì có thể hủy diệt được của những những người dân nơi phố huyện. Qua diễn biến nội tâm của nhân vật nhà văn đã thể hiện thật sâu sắc tấm bi kịch tinh thần của những con người nhỏ bé. Những kiếp người nhỏ bé vô danh nơi phố huyện nhỏ ấy rất dễ bị xã hội lãng quên. Tâm trạng của Liên cũng là tâm trạng chung của bao người đang phải sống trong bế tắc của những thân phận nhỏ bé, nghào hèn. Nhà văn đã thể hiện một niềm cảm thông sâu sắc và tình thương yêu đối với những người không may mắn ấy.
II. RÈN KĨ NĂNG
1. Bức tranh phố huyện được nhà văn miêu tả theo trình tự thời gian tuyến tính (trước – sau). Theo đó truyện ngắn Hai đứa trẻ có thể phần làm ba cảnh: cảnh chiều xuống (chợ tàn), cảnh đêm về và cảnh đêm khuya.
Cảnh chiều xuống (đoạn 1, 2): Trong đoạn này nhà văn tập trung miêu tả cảnh chợ tàn nơi phố huyện, một phiên chợ nghèo của một vùng quê nghèo.
Cảnh đêm về (đoạn 3) miêu tả phố huyện đêm về với một số hoạt động bán hàng, trò chuyện của các cư dân phố huyện.
Cảnh đêm khuya (đoạn 4, 5) tái hiện lại cảnh đoàn tàu đến và không gian tĩnh lặng của phố huyện khi con tàu đi qua.
Toàn bộ bức tranh phố huyện được nhìn qua tâm trạng của cô bé Liên, một cô bé đảm đang, tốt bụng với một tâm hồn đa cảm. Điều này đã làm nên chất trữ tình cho câu chuyện. Tâm trạng của Liên được miêu tả gắn liền với không gian phố huyện: buồn man mác, mơ hồ khó hiểu trước bức tranh cuộc sống nghèo phố huyện lúc chiều xuống; buồn khắc khoải trong cảnh chờ đợi một điều gì tốt đẹp hơn; buồn thấm thía khi chuyến tàu đi qua.
2. Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện, tác giả thường đi sâu vào miêu tả nội tâm nhân vật với những cảm xúc và cảm giác mơ hồ, mong manh. Miêu tả những diễn biến nội tâm tinh tế sâu sắc của nhân vật là biệt tài của Thạch Lam. Trong Hai đứa trẻ, nhà văn đã rất thành công trong việc miêu tả diễn biến tâm trạng của cô bé Liên qua đó thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Là nhân vật trung tâm của truyện những hành động của Liên không được chú tâm miêu tả. Câu chuyện như một dòng tâm trạng của nhân vật, từ khi chứng kiến cảnh chiều xuống đến khi chuyến tàu đêm đi qua. Có thể nói nhân vật Liên thuộc loại nhân vật trữ tình trong văn xuôi. Qua những cảm nhận của Liên về cảnh vật và cuộc sống xung quanh nhà văn thể hiện một nỗi buồn thấm thía và sâu sắc về số phận con người. Nỗi buồn của cô bé Liên cứ tăng tiến dần theo sự muộn dần của đêm. Khi chợ tàn và khi nhìn cảnh chiều đến, một buổi chiều êm như ru của phố huyện, lòng Liên man mác buồn mà không rõ nguyên nhân. Khi bóng đêm bao trùm phố huyện, “một đêm mùa hạ êm như nhung”, lại càng đáng sợ hơn. Cuộc sống quá buồn tẻ. Chẳng hứa hẹn một điều gì thay đổi cả. Nỗi buồn của Liên không trực tiếp thể hiện qua ngôn ngữ mà thể hiện ở ánh mắt “trong mắt chị bóng tối ngập đầy dần”, qua tâm trạng chờ đợi chuyến tàu đêm. Chị em Liên cùng những người dân phố huyện đã hàng đêm miệt mài ngồi chờ đợi chuyến tàu đêm đi qua với chút hy vọng vô cùng mong manh. Liên và An háo hức chờ đợi chuyến tàu để được gặp lại chút ánh sáng của những ngày còn được sống sung túc. Những người bán hàng chờ đợi khách xuống tàu dù họ vẫn biết chẳng mấy khi có khách xuống ở cái ga xép này. Chuyến tàu là nơi gửi gắm niềm hy vọng hàng đêm của họ và nó mang đến phố huyện một luồng ánh sáng mới dù chỉ trong chốc lát để họ có thể thoát ra khỏi sự yên ả đến ghê sợ của đêm. Đó là thời điểm vui nhất của chị em Liên bởi chuyến tàu là thứ ánh sáng tinh thần duy nhất để chị hồi ức lại những ngày đã qua. Qua dòng nội tâm của nhân vật có thể thấy rằng: khi miêu tả nội tâm nhân vật, Thạch Lam chú ý và có tài trong việc diễn tả những biến đổi tinh tế, những cảm nhận mơ hồ, sự pha trộn buồn vui lẫn lộn của nhân vật.
Chuyến tàu mang đến chút sôi động trong chốc lát nhưng cũng lại làm tăng lên cái ảm đạm và tĩnh mịch của đêm phố huyện. Qua diễn biến nội tâm của nhân vật nhà văn đã thể hiện thật sâu sắc tấm bi kịch tinh thần của những con người nhỏ bé. Những kiếp người nhỏ bé vô danh nơi phố huyện nhỏ ấy rất dễ bị xã hội lãng quên. Tâm trạng của Liên cũng là tâm trạng chung của bao người đang phải sống trong bế tắc của những thân phận nhỏ bé, nghào hèn. Nhà văn đã thể hiện một niềm cảm thông sâu sắc và tình thương yêu đối với những người không may mắn ấy.
Nhà văn đã dùng ánh sáng để miêu tả bóng tối, ánh sáng ngọn đèn dầu ở hàng nước chị Tý, ở gánh phở của bác phở Siêu làm nổi bật sự mênh mông của đêm tối ở làng quê. Nghệ thuật tương phản làm người đọc cảm nhận rõ hơn sự mênh mông của đêm tối. Còn ánh sáng đoàn tầu vụt qua trong thoáng chốc với những ồn ào và sôi động của nó càng tăng thêm sự tĩnh mịch, tăm tối và buồn tẻ nơi phố huyện nghèo. Và ánh sáng ngọn đèn dầu của chị Tý chập chờn đi vào giấc ngủ của Liên – hình ảnh kết thúc câu chuyện- đã để lại một niềm day dứt, một dư âm cho tác phẩm. Nhà văn lặp lại nhiều lần chi tiết ngọn đèn con ở hàng nước chị Tý. ánh sáng ấy nhỏ nhoi yếu ớt nhưng đêm nào cũng sáng và sáng từ chập tối đến khi cả phố huyện chìm sâu vào giấc ngủ. Có thể ánh sáng nhỏ nhoi ấy là biểu tượng cho niềm tin, hy vọng, ước mơ của những người dân nghèo nơi đây. Dù cuộc sống có tẻ nhạt, có khó khăn đến đâu họ vẫn vượt lên và vẫn hy vọng. Giống như ngọn đèn của chị Tý hàng đêm vẫn leo lét sáng giữa đêm, dù nhỏ nhoi nhưng không bao giờ lụi tắt.
4. Chuyến tàu là nơi gửi gắm niềm hy vọng hàng đêm của người dân phố huyện và nó mang đến một luồng ánh sáng mới dù chỉ trong chốc lát để họ có thể thoát ra khỏi sự yên ả đến ghê sợ của đêm. Đó là thời điểm vui nhất của chị em Liên bởi chuyến tàu là thứ ánh sáng tinh thần duy nhất để chị hồi ức lại những ngày đã qua. Chuyến tàu mang đến chút sôi động trong chốc lát nhưng cũng lại làm tăng lên cái ảm đạm và tĩnh mịch của đêm phố huyện.
Nhà văn đã miêu tả rất chi tiết hình ảnh đoàn tàu đêm đi qua phố huyện. Bắt đầu từ xa, khi xuất hiện ánh đèn ghi phía xa xa rồi đến âm thanh “tiếng còi” vọng lại... rồi con tàu vụt qua trong giây lát, chấm nhỏ của chiếc đèn xanh rồi đêm tối lại bao bọc xung quanh. Cách miêu tả này đã diễn tả được tâm trạng chờ đợi chuyến tàu của chị em Liên và những người dân nơi đây. Liên và An háo hức chờ đợi chuyến tàu để được sống lại những ngày quá khứ tươi đẹp và cũng là để thoát khỏi trong giây lát cuộc sống đơn điệu đến đáng sợ. Chuyến tàu là cứu cánh tinh thần cho những con người nơi đây.
Chuyến tàu vụt qua rất nhanh và thường chẳng mang lại lợi ích vật chất cho con người nơi phố huyện nhưng họ vẫn cứ chờ. Sự sôi động, sang trọng của con tàu vụt qua càng làm tăng thêm sự tĩnh mịch buồn tẻ của đêm. Họ gửi gắm ước mơ vào chuyến tàu đêm với một luồng ánh sáng phù hoa tan biến rất nhanh.
5. Lời văn của Thạch Lam trong truyện ngắn Hai đứa trẻ rất bình dị nhưng luôn thấm đượm cảm xúc, tâm trạng, đó là chất trữ tình trong văn xuôi Thạch Lam. Chẳng hạn:
- “Chiều, chiều rồi… đưa vào”
- “Một mùi âm ẩm bốc lên… của quê hương này”
- “Những cảm giác ban ngày lắng đi trong tâm hồn Liên… tịch mịch và đầy bóng tối”
v.v…
6. Qua bức tranh hiện thực phố huyện nghèo nhà văn thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với con người vô danh. Cuộc sống nghèo không đáng sợ bằng cuộc sống đơn điệu và tẻ nhạt, không ước mơ. Những con người nghèo khó nơi phố huyện ấy dù nhọc nhằn đến đâu cũng vẫn ước mơ và hy vọng. Họ vẫn dọn hàng, vẫn chờ khách dù biết bán hàng chẳng được bao nhiêu. Và họ đợi chuyến tàu với biết bao nhiêu hy vọng.
Qua việc tả cảnh kiên trì hàng đêm chờ tàu qua rồi mới dọn hàng, mới đi ngủ của những con người ấy, nhà văn muốn thể hiện một tư tưởng nhân văn. Đó là khẳng định sự bất diệt của khát vọng, ước mơ. Cuộc sống dù nghèo khổ, tăm tối và bế tắc đến đâu cũng không thể dập tắt được hy vọng và khát vọng của con người. Tác phẩm đã thể hiện tình thương yêu vô bờ và sự trân trọng của nhà văn đối với những thân phận nhỏ bé trong xã hội
III. TƯ LIỆU THAM KHẢO
1. Về tác giả
… “Trong văn hóa Việt Nam trước cách mạng 1945, Thạch Lam là một trong số những nhà văn được nhiều cảm tình của người đọc. Lời văn Thạch Lam nhiều hình ảnh, nhiều tìm tòi, có một cách điệu thanh thản, bình dị và sâu sắc. Dưới cái hình thức không những thoát ra khuôn sáo cũ của cách hành văn đương thời mà lại có rất nhiều đức tính sáng tạo ấy, văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời. Thạch Lam có những nhận xét tinh tế về cuộc sống hàng ngày. Xúc cảm của nhà văn Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo thành thị khác và thôn quê. Thạch Lam là một nhà văn quý mến cuộc sống, trang trọng trước sự sống của mọi người chung quanh. Ngày nay đọc lại Thạch Lam, vẫn thấy đầy đủ cái dư vị và cái nhã thú của những tác phẩm có cốt cách và phẩm chất văn học. Mặc dù in ra ít, sách Thạch Lam có đánh dấu lại được cái tâm hồn súc tích, rộng rãi và tiến bộ của một nhà văn xuôi chân chính…
… Nói đến nghệ thuật của Thạch Lam, tức là nói cụ thể đến nghệ thuật viết truyện ngắn của Thạch Lam. Một số truyện ngắn của Thạch Lam có thể coi như là mẫu mực được. Có những truyện ngắn Thạch Lam, ở cái thời bấy giờ, đọc xong thấy nó đọng lại trong người ta như một câu hỏi bức thiết của tác giả, như là một lời trách móc kín đáo của nhân vật truyện. Những vi phạm vào quyền sống của hạnh phúc tuổi trẻ, những nỗi cay đắng oan uổng của cảnh bị ép duyên, đâm đầu xuống sông mà không chết ngay được, để sau đó phải mòn chết oan trái trong chuyện Hai lần chết. Nhưng cuộc sống phụ nữ hết lo cho em lại đến lo cho chồng, cứ chìm chìm, xám xám như thế quanh một cái chợ. Những Cô hàng xén tuy không lên tiếng đòi quyền sống trong truyện, nhưng qua kẽ dòng truyện, vẫn như hỏi thầm người độc giả rằng ý nghĩa cuộc sống có phải là như thế không?...
Nguyễn Tuân
(Theo Tuyển tập Thạch Lam
Nxb Văn học, Hà Nội, 1988, tr.323-329)
2. Tập Gió đầu mùa.
… “Trước ngọn gió đầu mùa, tôi không khỏi ngăn được những cảm giác sâu xa và mới lạ. Tôi đem tâm nghĩ ngợi đến những cơn gió đột khởi ở lòng người, báo trước những sự thay đổi trong cái bí mật của tâm hồn. Tôi lại nghĩ đến những người nghèo khổ đang lầm than trong cái đói rét cả một đời. Gió heo may sẽ làm cho họ buồn rầu lo sợ, vì mùa đông sắp tới, mùa đông giá lạnh và lầy lội phủ trên lưng họ cái màn lặng lẽ của sương mù.Và lòng tôi se lại khi nghĩ rằng chỉ một chút âu yếm, một chút tình thương, cũng đủ nâng đỡ, an ủi những người khốn ấy.
Đó là những ý nghĩ mà Gió đầu mùa đã gây nên trong trí tôi. Những câu chuyện trong quyển sách này tôi viết ra cũng như những cảm giác mới mẻ mà tôi đã thấy. Tôi hết sức diễn tả cho đúng tất cả sự thực rung động và thi vị của cuộc đời. Tôi không có ý muốn kể những truyện thần tiên hay lãng mạn nhưng những cảm tưởng của tôi với các đời sống kín đáo và giản dị quanh mình. Bởi vì đối với tôi, văn chương không phải là cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.
Thạch Lam
(Lời nói đầu tập Gió đầu mùa, Tuyển tập Thạch Lam, Sđd, tr.25)
3. Về tác phẩm
… “Truyện Hai đứa trẻ có một hương vị thật là man mác. Nó gợi một nỗi niềm thuộc về quá vãng, đồng thời cũng dóng lên một cái gì còn ở trong tương lai. Đây là một mẫu sinh hoạt hàng ngày và kéo dài của hai chị em đứa trẻ thay mẹ trông nom một gian hàng vặt ở một cái phố huyện, gần một cái ga xép. Đêm đêm có những bóng người bình thường lù mù đi qua trước gian hàng. Những bóng người ấy cũng lù mù như nhiều chấm lửa ở những nguồn ánh sáng quanh quất nơi phố huyện. Trong cái bốn bề chìm chìm nhạt nhạt, bỗng có những tiếng động mạnh và những luồng ánh sáng mạnh của một chuyến xe lửa kéo qua hàng ngày. Hai chị em đứa trẻ ngày nào cũng chờ một chuyến tàu đêm kéo qua rồi mới chịu đóng cửa hàng. Nơi cái thế giới quan của đôi trẻ ở một phố quê, hình ảnh đoàn tàu và cái tiếng còi tàu đã thành một thói quen của cảm xúc và của ước vọng. Đọc Hai đứa trẻ, thấy bận bịu vô hạn về một tấm lòng quê hương êm mát và sâu kín…”
Nguyễn Tuân
(Tuyển tập Thạch Lam, Sđd, tr.325)
… “Hai đứa trẻ là một truyện không có chuyện, nhưng lại có sức gợi thật sâu xa. Hai đứa trẻ, hai chị em có trách nhiệm trông nom một chõng hàng; việc bán buôn chắc lời lãi chẳng là bao, nhưng cũng là một khoản thu phụ thêm cho gia đình nghèo. Một chõng hàng nơi phố huyện có gì mà thành chuyện! Nhưng hoạt động của cái chõng hàng đó của hai chị em, đã thành một thói quen, theo lời dặn của mẹ, phải chờ cho đến khi chuyến tàu đêm cuối cùng từ Hà Nội về, xình xịch chạy qua, cho đến khi tiếng ầm ầm của bánh xe ngớt hẳn, rồi mới dọn hàng, tắt đèn đi ngủ, lại gợi một nỗi niềm gì thật xao xác, bâng khuâng. Cái tiếng động đêm khuya ấy lại vang vào truyện một vẻ quạnh hiu, xa vắng vô cùng. Chuyến tàu đầy ánh sáng, đi qua một ga xép, tuy có lưa thưa những ánh đèn dầu, nhưng khuất đầy bóng tối; chuyến tàu đến từ Hà Nội hoa lệ, với những khách sang và hai chị em con nhà nghèo nhìn lên cái ô cửa mà thấy con tàu mang theo đi cùng tiếng động, cả một nỗi niềm gì vừa bâng khuâng vừa sâu thẳm. Hai đứa trẻ, một truyện không có chuyện, mà ngập đầy không khí và tâm trạng. Không khí một cảnh quê, nơi có một ga xép nhờ một chuyến tàu đúng giờ ấy, khắc ấy chạy qua mà mang được chút dư âm, dư vị tỉnh thành… và từ dư âm, dư vị đó mà đưa con người vào một tâm trạng buồn vui lẫn lộn, trước một cái gì vừa thuộc về quá vãng, vừa hướng tới tương lai…”.
Phong Lê
(Lời giới thiệu Tuyển tập Thạch Lam, Sđd, tr.14 -15)