I. KIẾN THỨC CƠ BẢN
 1. 
Ánh trăng của Nguyễn Duy mang sức sáng nối liền quá khứ –  hiện tại, là tấm gương trăng để soi lòng. Con người của gốc lúa bờ tre,  của nắng nỏ trời xanh, của lời ru trọn kiếp người không đi hết, của  “Nước chè tươi rót vàng mơ” ấy thường hay giật mình giữa chốn đô hội ồn  ào:
 Tắc kè…
 tắc kè…
 tôi giật mình
 [...]
 cái âm thanh của rừng lạc về thành phố
 [...]
 Chợt hiện về thăm thẳm núi non kia”
 (
Nghe tắc kè kêu trong thành phố)
 2. Những năm tháng “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” đã trở thành nguồn  mạch hồi ức thường trực trong tâm hồn nhà thơ. Cho nên chỉ một tiếng  tắc kè kêu cũng đủ khơi cho nguồn mạch ấy dào dạt chảy. Thì ra, người  vốn thiết tha với đồng quê bình dị, say sưa với ca dao hò vè cũng là  người ân tình với quá khứ gian lao, nặng lòng với núi rừng một thủa. Với  
Ánh trăng, Nguyễn Duy lại thêm một cái “giật mình”.
 Trăng cứ tròn vành vạnh
 kể chi người vô tình
 ánh trăng im phăng phắc
 đủ cho ta giật mình.
 Mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái “giật  mình” cuối bài thơ. Trăng hiện diện trong quá khứ, đột ngột sáng trong  hiện tại và mặc nhiên vằng vặc trong suy ngẫm nhân tình.
 Vầng trăng tình nghĩa sáng trong không gian và thời gian kí ức:
 Hồi nhỏ sống với đồng
 với sông rồi với bể
 hồi chiến tranh ở rừng
 vầng trăng thành tri kỉ
 Trần trụi với thiên nhiên
 hồn nhiên như cây cỏ
 ngỡ không bao giờ quên
 cái vầng trăng tình nghĩa
 Con người và thiên nhiên hài hoà trong mối kết giao tri kỉ, thuỷ  chung. Từ những năm tháng tuổi thơ bươn trải nhọc nhằn gắn bó với 
đồng, với 
sông rồi với 
bể cho đến những năm tháng chiến tranh gian khổ sống với 
rừng,  bao giờ trăng cũng gần gũi, thân thiết. Giữa con người với thiên nhiên,  với trăng là mối quan hệ chung sống, quan hệ thâm tình khăng khít.  Trăng là người bạn đồng hành trên mỗi bước đường gian lao nên trăng hiện  diện như là hình ảnh của quá khứ, là hiện thân của kí ức chan hoà tình  nghĩa. Người ta cứ đinh ninh về sự bền chặt của mối giao tình ấy, nhưng:
 Từ hồi về thành phố
 quen ánh điện, cửa gương
 vầng trăng đi qua ngõ
 như người dưng qua đường
 Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện, cửa gương đã  làm lu mờ ánh sáng của vầng trăng. Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa  hình ảnh vầng trăng tri kỉ, tình nghĩa trong quá khứ và vầng trăng “như  người dưng qua đường” trong hiện tại. Sự đối lập này diễn tả những đổi  thay trong tình cảm của con người. Thủa trước, ta hồn nhiên sống với  đồng, với sông, với bể, với gian lao “ở rừng”, khi ấy trăng chan hoà  tình nghĩa, thiên nhiên và con người gần gũi, hoà hợp. Bây giờ, thói  quen cuộc sống phương tiện đủ đầy khiến ta không còn thấy trăng là tri  kỉ, nghĩa tình nữa. Nhà thơ nói về trăng là để nói thế thái, nhân tình.
 Tuy nhiên, cuộc sống hiện đại luôn có những bất trắc. Và chính trong  những bất trắc ấy, ánh sáng của quá khứ, của ân tình lại bừng tỏ, là lúc  người ta nhận thấy giá trị của quá khứ gian lao mà tình nghĩa, thiếu  thốn mà đủ đầy:
 Thình lình đèn điện tắt
 phòng buyn-đinh tối om
 vội bật tung cửa sổ
 đột ngột vầng trăng tròn
 Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ của toàn bài, là sự chuyển  biến có ý nghĩa bước ngoặt của mạch cảm xúc, bộc lộ rõ chủ đề tư tưởng  của bài thơ.
 3. Không chỉ là sự thay thế đúng lúc của ánh trăng cho ánh điện, ở  đây còn là sự thức tỉnh, bừng ngộ về ý nghĩa của những ngày tháng đã  qua, của những cái bình dị của cuộc sống, của tự nhiên, là sức sống vượt  ra ngoài không gian, thời gian của tri kỉ, nghĩa tình. Các từ “bật  tung”, “đột ngột” diễn tả trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ. Có cái gì  như thảng thốt, lo âu trong hình ảnh “vội bật tung cửa sổ”. Vầng trăng  tròn đâu phải khi “đèn điện tắt” mới có?! Cũng như những tháng năm quá  khứ, vẻ đẹp của đồng, sông, bể, rừng không hề mất đi. Chỉ có điều con  người có nhận ra hay không mà thôi. Và thế là trong cái khoảnh khắc  “thình lình” đối diện với trăng ấy, ân tình xưa “rưng rưng” sống dậy,  thổn thức lòng người:
 Ngửa mặt lên nhìn mặt
 có cái gì rưng rưng
 như là đồng là bể
 như là sông là rừng
 Đối diện với trăng là đối diện với chính mình, với con người hiện tại  và cả với con người trong quá khứ. Sự đồng hiện thời gian – không gian /  trăng – người được thể hiện bằng 
ngôn ngữ lập thể. Vầng trăng  mang ý nghĩa biểu tượng. Mặt trăng đối diện với mặt người, mặt trăng  cũng là mặt người, là quá khứ đang sáng trong thực tại, trăng là tri kỉ,  ân tình xưa,…
 4. Từ khổ thơ đầu là 
vầng trăng (4 lần) đến khổ thơ cuối bài là 
ánh trăng.  Ánh trăng bất chợt soi chiếu, thản nhiên và độ lượng, sự im lặng của  ánh trăng là sự im lặng của chân lí. Bình dị, mộc mạc nhưng đủ khiến “ta  giật mình”. Cái chân lí giản đơn đã thành đạo lí: “Uống nước nhớ  nguồn”.
 
II. RÈN LUYỆN KỸ NĂNG
 1. Hình ảnh thơ trong bài có tính biểu tượng. Hiểu được ý nghĩa của  hình ảnh ánh trăng, mới hiểu được cảm xúc ân tình với quá khứ gian lao ,  tình nghĩa của tác giả và từ đó rút ra bài học về cách sống cho bản  thân.
 2. Khi đọc, cần chú ý sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố trữ tình và yếu  tố tự sự trong bố cục, giữa ý nghĩa cụ thể và ý nghĩa khái quát của hình  tượng thể hiện trong bài thơ.