 
 
 
 
 
 
 
I/Tìm hiểu chung
1.Tác giả
Nguyễn Tuân (1910-1987) người Hà  Nội. Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: tài hoa, tài tử, uyên bác,  độc đáo. Tác phẩm của Nguyễn Tuân là những tờ hoa, trang văn đích thực  thể hiện tấm lòng gắn bó thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền,  với nếp sống thanh cao, đầy nghệ thuật của ông cha… Nguyễn Tuân sở  trường về tuỳ bút.
Tác phẩm tiêu biểu: Vang bóng một thời (1940), Sông Đà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972),…
2.Tác phẩm
-Xuất xứ: “Vang bóng một thời” có 12 truyện xuất bản năm 1940. “Chữ người tử tù” rút trong “Vang bóng một thời”.
-  Chủ đề: Tác giả ca ngợi Huấn Cao - một nhà nho chân chính - giàu khí  phách chọc trời khuấy nước, có tài viết chữ, qua đó khẳng định một quan  niệm sống: phải biết yêu quý cái đẹp, đồng thời phải biết coi trọng  thiên lương.
II/Đọc hiểu văn bản
1. Truyện “Vang bóng một  thời” chưa đầy 2500 chữ nhưng hàm chứa một dung lượng lớn. Chỉ có ba  nhân vật và ba cảnh: Quản ngục và viên thơ lại đọc công văn và nói về tử  tù Huấn Cao; Huấn Cao bị giải đến và sự biệt đãi của ngục quan đối với  tử tù; cảnh Huấn Cao cho chữ trong nhà ngục. Cảnh nào cũng hội tụ cả ba  nhân vật này.
2. Thơ lại: kẻ giúp việc giấy tờ cho ngục quan. Một  con người sắc sảo và có tâm điền tốt. Mới đọc công văn và nghe ngục  quan nói về Huấn Cao, y đã biểu lộ lòng khâm phục: “thế ra y văn võ đều  có tài cả, chà chà!”. Sau đó lại bày tỏ lòng thương tiếc: “… phải chém  những người như vậy, tôi nghĩ mà thấy thương tiếc”. Sau nhiều lần thăm  dò, thử thách, ngục quan đánh giá viên thơ lại: “Có lẽ lão bát này cũng  là một người khá đây. Có lẽ hắn cũng như mình, chọn nhầm nghề mất rồi.  Một kẻ biết yêu mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có  tài, hẳn không phải là kẻ xấu hay là vô tình”, Suốt nửa tháng, tử tù ở  trong buồng tối vẫn được viên thư lại gầy gò “dâng rượu và đồ nhắm”. Y  đã trở thành kẻ tâm phúc của ngục quan. Sau khi nghe tâm sự của ngục  quan “muốn xin chữ tử tù”, viên thư lại sốt sắng nói: “Dạ bẩm, ngài cứ  yên tâm, đã có tôi” rồi y chạy ngay xuống trại giam đấm cửa thùm thùm  gặp Huấn Cao. Nhờ y mà ngục quan xin được chữ tử tù. Trong cảnh cho chữ,  viên thơ lại run run bưng chậu mực. Đúng y là một người biết yêu mến  khí phách, biết tiếc biết trọng người có tài. Nhân vật thơ lại chỉ là  một nét vẽ phụ nhưng rất thần tình, góp phần làm rõ chủ đề.
3. Ngục quan
-  Chọn nhầm nghề. Giữa bọn người tàn nhẫn, lừa lọc thì ngục quan lại có  “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay” chẳng  khác nào “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bàn đàn mà nhạc  luật đều hỗn loạn xô bồ”.
- Lần đầu gặp Huấn Cao trong cảnh nhận  tù, ngục quan có “lòng kiêng nể”, lại còn có “biệt nhỡn” đối riêng với  Huấn Cao. Suốt nửa tháng trời, ngục quan bí mật sai viên thơ lại dâng  rượu và đồ nhắm cho tử tù - Huấn Cao và các đồng chí của ông.
-  Lần thứ hai, y gặp mặt Huấn Cao, nhẹ nhàng và khiêm tốn bày tỏ “muốn  châm chước ít nhiều” đối với tử tù, nhưng đã bị ông Huấn miệt thị nặng  lời, gần như xua đuổi, nhưng ngục quan vẫn ôn tồn, nhã nhặn “xin lĩnh ý”  rồi lui ra.
- Ngục quan là một nhà nho “biết đọc vỡ nghĩa sách  thánh hiền” suốt đời chỉ ao ước một điều là “có một ngày kia treo ở nhà  riêng mình một câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Ngục quan đang sống  trong bi kịch: y tâm phục Huấn Cao là một người chọc trời khuấy nước  nhưng lại tự ti “cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù”. Viên quản  ngục khổ tâm nhất là “có một ông Huấn Cao trong tay mình, không biết làm  thế nào mà xin được chữ”. Là quản ngục nhưng lại không can đảm giáp mặt  tử tù vì y cảm thấy Huấn Cao “cách xa y nhiều quá?”. Tử tù thì ung  dung, trái lại, ngục quan lại lo “mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình mà  chưa xin được mấy chữ thì ân hận suốt đời”. Bi kịch ấy cho thấy tính  cách quản ngục là một con người biết phục khí tiết, biết quý trọng người  tài và rất yêu cái đẹp. Y yêu chữ Huấn Cao, chứng tỏ y có một sở thích  cao quý. Vì thế khi nghe viên thơ lại nói lên ước nguyện của ngục quan,  Huấn Cao cảm động nói: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các  người. Nào ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở  thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta phụ mất một tấm lòng trong  thiên hạ”. Như vậy, trong vị thế xã hội, ngục quan và tử tù là đối địch,  còn trên lĩnh vực nghệ thuật, họ là tri âm. Huấn Cao đã tri ngộ một kẻ  biệt nhỡn liên tài là ngục quan.
- Trong cảnh cho chữ có một hình  ảnh kỳ diệu: “ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba đầu  người đang chăm chú trên một tấm lục bạch còn nguyên vẹn lần hồ”. Ánh  sáng bó đuốc ấy chính là ánh sáng của thiên lương mà tử tù đang chiếu  lên và lay tỉnh ngục quan. Chi tiết ngục quan “khúm núm cất những đồng  tiền kẽm đánh dấu cô chữ đặt trên phiến lục óng”, chi tiết ngục quan vái  tử tù một vái, nước mắt rỉ vào kẽ miệng nghẹn ngào nói: “kẻ mê muội này  xin bái lĩnh” là những chi tiết thú vị. Lúc sở thích nghệ thuật đã mãn  nguyện cũng là lúc ánh sáng thiên lương soi tỏ, chiếu rọi tâm hồn. Một  cái vái lạy đầy nhân cách, hiếm có.
- Có thể, sau khi Huấn Cao bị  giải vào Kinh thụ hình thì cũng là lúc ngục quan trả áo mũ, “tìm về nhà  quê mà ở” để giữ lấy thiên lương cho lành vững và thực hiện cái sở  thích chơi chữ bấy nay? Nguyễn Tuân đã xây dựng ngục quan bằng nhiều nét  vẽ có thần. Ngoại hình thì “đầu đã điểm hoa râm, râu đã ngả màu”. Một  con người ưa sống bằng nội tâm; cái đêm hôm trước đón nhận tử tù, ông  sống trong trạng thái thanh thản, gương mặt ông ta “là mặt nước ao xuân,  bằng lặng, kín đáo và êm nhẹ”. Trong một xã hội phong kiến suy tàn,  chốn quan trường đầy rẫy kẻ bất lương vô đạo, nhân vật ngục quan đúng là  một con người vang bóng. Nhân vật này đã thể hiện sâu sắc chủ đề tác  phẩm.
4. Huấn Cao: là nhân vật bi tráng, cao đẹp mang màu sắc lãng mạn.
a
-  Lúc đầu được giới thiệu gián tiếp qua một tiếng đồn: “cái người mà vùng  tỉnh ta vẫn khen…”, “nhiều người nhấc nhỏm đến cái danh đó luôn…”, “một  tên tù có tiếng là…”, và “thầy có nghe người ta đồn…” - Đó là một con  người không phải tầm thường!
- Ngục quan và viên thơ lại mới  “kiến kì thanh” mà đã tâm phục Huấn Cao, họ trầm trồ: “Người đứng đầu…”,  “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất  đẹp…”, một tử tù lừng lẫy tiếng tăm “văn võ đều có tài cả”…
- Lấy  xa để nói gần, lấy bóng làm lộ hình, sử dụng lối tả gián tiếp… đó là  bút pháp Nguyễn Tuân vận dụng sáng tạo để giới thiệu nhân vật, tạo ra sự  cuốn hút nghệ thuật kì diệu.
b
- Là một nhà nho kiệt hiệt dám  chọc trời khuấy nước. Chí lớn không thành mà vẫn hiên ngang. Chết chém  cũng chẳng sợ. Một tinh thần gang thép “vô úy” bất khuất. Một cái “rỗ  gông” trước của ngục. Một câu miệt thị ngục quan: “Ngươi hỏi ta muốn gì?  Ta chỉ muốn có một điều: Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”. Không phải  ai cũng có cái gan dám thách thức cường quyền bạo lực thế đâu?
c
-  Coi khinh vàng ngọc. Không vì vàng ngọc, vì quyền uy mà “ép mình viết  bao giờ?”. Chữ thì quý thật? Nhất sinh ông mới viết hai bộ tứ bình và  một bức trung đường tặng ba người bạn thân. Không chỉ đẹp ở nét chữ, mà  mỗi chữ, mỗi bức thư họa của Huấn Cao là một bức châm, thể hiện một lý  tưởng tung hoành, một hoài bão, một đạo lý cao đẹp. Chữ của Huấn Cao cho  thấy cái tài, cái tầm nhìn của kẻ sĩ chân chính mà ta ngưỡng mộ và kính  phục.
d
- Với Huấn Cao thì thiên lương là ngọn lửa, là “ánh  sáng đỏ rực” như ngọn đuốc kia. Nếu ngục quan tâm phục con người nghĩa  khí, tài hoa thì Huấn Cao lại nể trọng con người biệt nhỡn liên tài.  Suốt đời ông chỉ “cúi đầu vái lạy hoa mai” thế mà khi nghe viên thơ lại  nói lên tâm sự của chủ mình muốn “xin chữ”, Huấn Cao đã ân hận nói:  “Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Cảnh “cho chữ”  được miêu tả bằng bút pháp lãng mạn gợi lên một không khí thiêng liêng  bi tráng. Phóng giam ẩm ướt bẩn thỉu, hôi hám. Lửa đuốc sáng rực. Tấm  lụa trắng. Chậu mực thơm lắm. Ba cái đầu cúi xuống tấm lụa trắng. Huấn  Cao hiện ra với vẻ uy nghi, hào hùng. Cổ đeo gông, chân vướng xiềng,  Huấn Cao vung bút viết. “Những nét chữ vuông vắn rõ ràng” hiện lên rực  rỡ trên phiến lụa óng. Tư thế đĩnh đạc ung dung. Mai kia ông đã bước lên  đoạn đầu đài, nhưng đêm nay ông vẫn ung dung. Một cử chỉ “đỡ viên quản  ngục đứng thẳng người dậy”. Một lời khuyên: “Ta khuyên thầy quản nên  thay chỗ ở đi… thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã rồi hãy nghĩ đến  chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng  đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Với Huấn Cao thì thiên lương  là cái gốc của đạo lý, có giữ được thiên lương mới biết quý trọng tài  năng và cái đẹp ở đời.
Ở con người Huấn Cao, từ cử chỉ, hành động  đến ngông ngữ, từ nét chữ đến phong thái - đều toát ra một vẻ đẹp vừa  phi thường, vừa bình dị, vừa anh hùng, vừa nghệ sĩ, bên cạnh cái hùng có  cái bi, tính vốn khoảnh mà lại trân trọng kẻ biệt nhỡn liên tài, coi  thường vàng bạc quyền uy mà lại đề cao tình bằng hữu, đến chết vẫn nghĩa  khí và giữ trọn thiên lương. Nguyễn Tuân đã dàn cảnh, tả người và kể  chuyện, sử dụng những ẩn dụ so sánh, những tình tiết đan chéo, ràng buộc  vào nhau, tạo nên một không gian nghệ thuật cổ kính, bi tráng nâng nhân  vật Huấn Cao lên một tầm vóc lịch sử. Văn học lãng mạn thời tiền chiến  chỉ có một Huấn Cao đẹp hào hùng như vậy.
III/Tổng kết
Đọc  “Chữ người tử tù” ta càng thấm thía điều mà Vũ Ngọc Phan đã nói: “… văn  Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức”. Nghệ  thuật kể chuyện, cấu trúc tình tiết, lời độc thoại và đối thoại, khắc  họa tính cách nhân vật… hầu như không có một chi tiết nào thừa. Ba nhân  vật cùng đồng thời xuất hiện. Cảnh cho chữ là cao trào, một cảnh tượng  xưa nay chưa từng có. Tất cả đều hướng về cái tài, cái đẹp, cái thiên  lương. Nguyễn Tuân đã sử dụng một loạt từ Hán Việt rất đắt (pháp trường,  tử tù, tử hình, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung đường, lạc khoản,  thiên hạ, thiên lương, lương thiện, v.v…) tạo nên màu sắc lịch sử, cổ  kính và bi tráng. Đúng Nguyễn Tuân là bậc thầy về ngôn ngữ, rất lịch lãm  uyên bác về lịch sử, về xã hội.
Hai câu văn: “Thiếu chút nữa ta  phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, và: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” -  đẹp như những bức châm trong các thư họa nghìn xưa lưu lại trong các  viện bảo tàng mĩ thuật. Cũng là bài học làm người sáng giá!